
TUẦN 5 - NGÀY 31/05/2025
CHỦ ĐỀ: NGÀY THỨ BA (tiếp theo)
(Tôn sư Khangser Rinpoche hướng dẫn)
I/ 4 TÍNH VĨ ĐẠI CỦA LAMRIM
1/ Tính vĩ đại giúp bạn nhận ra rằng mọi giáo lý đều nhất quán
2/ Tính vĩ đại khiến mọi kinh điển đối với bạn đều trở thành lời chỉ giáo
3/ Tính vĩ đại giúp bạn dễ dàng khám phá ý thật của Phật
4/ Tính vĩ đại giúp bạn tự cứu mình khỏi những tà hạnh
Hôm trước Thầy hướng dẫn 4 tính vĩ đại của Lamrim. Hôm nay chúng ta sẽ học tiếp tính vĩ đại thứ 4 của Lamrim: Tính vĩ đại giúp bạn tự cứu mình khỏi những tà hạnh (trang 143, quyển 1 - Ngày thứ ba).
Thầy nói rằng khi đọc sách Giải Thoát Trong Lòng Tay bằng tiếng Việt, nếu chúng ta cảm thấy sách có phần khó hiểu thì có thể nghe lại bài giảng của Thầy, sau đó mở sách ra đọc lại.
Hãy trở lại với tính vĩ đại thứ 4 của Lamrim. Ở đây nói rằng giáo lý của Phật hướng dẫn chúng ta những phương pháp thực hành giúp tịnh hóa ác nghiệp từ thân, khẩu, ý của mình. Nghĩa là hiểu biết giáo pháp của Phật thông qua Lamrim sẽ giúp chúng ta chừa bỏ và tránh tất cả các việc làm sai trái và lỗi lầm thông qua hành động, lời nói và ý nghĩ của mình.
Vậy việc hiểu được Phật pháp giúp ta thoát khỏi tất cả các lỗi lầm như thế nào? Đầu tiên, cần phải hiểu thông qua hành động, lời nói và ý nghĩ, chúng ta có những lồi lẫm nào? Chúng ta có thể thực hành theo cách quán sát xem mình có những lỗi lầm, khuyết điểm nào và viết xuống giấy từ 3-5 thói quen xấu mình đang có. Nếu ta nghĩ rằng mình không có thói quen xấu nào, có thể hỏi người thân của mình.
Lấy ví dụ, ăn quá nhiều và mỗi lần ăn nhiều bị tăng cân không phải là tật xấu. Cho nên khi tìm tật xấu của bản thân, chúng ta không tìm những điều giống như vậy. Nếu ta hay uống rượu và mỗi lần uống rượu thì uống cho đã, đó mới là thói quen xấu. Nghiện rượu là thói quen xấu vì sẽ gây tổn hại cho sức khỏe. Hay nếu ta đang bị bệnh tiểu đường mà vẫn ăn nhiều đồ ngọt thì thói quen ăn nhiều đường khi đang bị tiểu đường là tật xấu. Thỉnh thoảng Thầy có thói quen ăn đồ ngọt, nhưng Thầy không có bị bệnh tiểu đường.
Thầy đang giải thích như thế nào là thói quen xấu. Ví dụ, sức khỏe vẫn đang ổn và ta thỉnh thoảng ăn nhiều hơn một chút thì không phải là tật xấu. Nếu ta đang bệnh mà lại ăn nhiều khiến sức khỏe trở nên tồi tệ hơn thì đó là tật xấu.
Thầy nói rằng ngủ nhiều không phải là thói quen xấu. Thỉnh thoảng Thầy cũng hay ngủ nhiều. Hiện giờ thầy đang ở Mỹ nên phải thức dậy sớm để dạy cho nhiều lớp học nên đôi lúc Thầy ngủ nhiều hơn một chút. Cơ thể của chúng ta cần ngủ ít nhất từ 8-10 tiếng mới đủ sức khỏe hoạt động trong một ngày. Nhưng nếu một ngày bỏ quá nhiều thời gian vào việc ngủ, ví dụ như ngủ hơn 10 tiếng, đó là hành động ngu ngốc.
Bước đầu chúng ta hãy tìm từ 3-5 thói quen xấu mà mình đang có. Bài tập khó hơn một chút là tìm xem ta đang có 3 thói quen suy nghĩ tiêu cực nào. Việc tìm thói quen xấu sẽ dễ hơn là tìm những suy nghĩ tiêu cực.
Thầy lấy ví dụ về thói quen suy nghĩ tiêu cực. Ví dụ, một người thích ăn thịt gà thì không có vấn đề gì, nhưng nếu lúc nào cũng nghĩ đến việc ăn thịt gà, đó là thói quen suy nghĩ tiêu cực vì tâm đang bám chấp vào việc phải có thịt gà cho bằng được.
Một ví dụ khác, chúng ta thích đạo Phật, lúc nào cũng suy nghĩ về Đức Phật. Nghĩ về Đức Phật không phải là điều tiêu cực, nhưng lúc nào ta cũng nhắc đến Đức Phật trong tất cả mọi câu chuyện với người khác thì đó là thói quen suy nghĩ tiêu cực. Vì cứ nghĩ về Đức Phật và nói về Đức Phật trong mọi hoàn cảnh thì làm sao tập trung suy nghĩ và giúp đỡ được người hiện diện ở trước mặt mình. Những suy nghĩ thái quá, vượt mức bình thường là những suy nghĩ tiêu cực. Cho nên, các học viên hãy tìm 3 thói quen suy nghĩ tiêu cực mà mình đang có và viết xuống giấy.
Thầy kể một câu chuyện: có một vị sư thường đi khất thực. Vị sư này có một cái bát bị mẻ. Đức vua của vương quốc đó là một học trò của vị sư này. Khi thấy thầy mình cầm một bình bát bị mẻ thì phát tâm cúng dường cho vị sư một chiếc bình bát bằng vàng. Khi đức vua cúng dường cho thầy mình chiếc bình bát bằng vàng, một tên trộm biết tin này nên ban đêm lẻn vào chỗ của nhà sư để ăn cắp chiếc bình bát đó. Thế là ban đêm tên trộm lẻn vào chỗ của nhà sư, lục lọi khắp nơi phát ra nhiều tiếng động khiến nhà sư không thể nào ngủ được. Vị sư mới thức dậy và nói với tên trộm rằng: “Ta biết người đến đây chỉ muốn trộm chiếc bình bát bình vàng. Bình bát đang ở dưới giường của ta, hãy lấy đi và đừng làm phiền giấc ngủ của ta nữa, đi ra thì nhớ đóng cửa lại”.
Sau khi tên trộm lấy bình bát bằng vàng rời đi thì nhà sư ngủ yên giấc. Một tuần sau, tên trộm mang chiếc bình bát bằng vàng đến chỗ nhà sư và trả lại. Tên trộm nói với vị sư rằng: “Sau khi con đem bình bát của thầy về, con không thể nào ngủ yên được, vì cứ lo sợ có người đến trộm nên phải thức để canh chừng chiếc bình bát”.
Lúc này, tên trộm cũng hỏi nhà sư: “Trước khi con trộm chiếc bình bát, con cũng không thể ngủ được vì cứ suy nghĩ tìm đủ mọi cách để trộm. Sau khi trộm được chiếc bình bát, con cũng không ngủ được vì sợ người khác trộm mất chiếc bình bát của mình. Vậy thầy làm sao có thể ngủ ngon được trước khi có chiếc bình bát, sau khi có chiếc bình bát và lúc mất đi bình bát?”.
Vấn đề có ngủ được hay không không nằm ở chiếc bình bát bằng vàng mà nằm ở tâm thức của con người. Trường hợp của tên trộm là do bám chấp vào chiếc bình bát, muốn có được nó, giữ nó nên không thể nào ngủ ngon được. Cũng giống như vậy, chúng ta hãy kiểm tra mình có bám chấp hay muốn níu kéo điều gì hay không, bằng cách tìm xem mình đang có các thói quen suy nghĩ tiêu cực nào.
Các học trò thường hay cúng dường bữa sáng cho Thầy. Khi học trò cúng dường bữa sáng cho Thầy, lớp chúng ta có biết họ thường hay hỏi Thầy câu gì không? Lúc ăn sáng, có một số học trò cũng tham gia ăn sáng cùng Thầy. Ngay lúc đang ăn, học trò lại hỏi buổi trưa nay Thầy muốn ăn món gì. Thầy nói rằng bữa sáng còn chưa ăn xong, làm sao nghĩ đến ăn gì vào buổi trưa. Nếu bây giờ Thầy trả lời là buổi trưa Thầy muốn ăn món này, món kia thì chắc chắn học trò đó lại hỏi buổi tối Thầy muốn ăn gì. Nếu liên tục suy nghĩ như vậy thì không thể nào cảm nhận được vị ngon của bữa sáng mình đang ăn.
Lớp chúng ta hãy tìm từ 3-5 tật xấu và tìm 3 thói quen suy nghĩ tiêu cực mình đang có. Nếu tìm hoài mà không thấy mình có thói quen suy nghĩ tiêu cực hay tật xấu nào thì Thầy chúc mừng. Bởi vì tìm không ra thói quen hay tật xấu nào có nghĩa là chúng ta mới học vài buổi Lamrim thôi mà đã giác ngộ thành Phật rồi (Rinpoche cười).
“Tính vĩ đại giúp bạn tự cứu mình khỏi tà hạnh” nghĩa là sau khi học Lamrim xong, hiểu được Phật pháp, ta nhận diện được các thói quen xấu và từ bỏ, phòng tránh các thói quen xấu đó. Ta hãy thực sự tỉnh táo và thành thật với bản thân để nhìn nhận những tật xấu, những thói quen suy nghĩ tiêu cực mình đang có. Nếu ta chịu chấp nhận và nhận diện được tật xấu của mình cũng là một bước giác ngộ rất lớn.
90% vấn đề khó khăn trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta đến từ vô minh. Vô minh là không sáng suốt, không hiểu biết. Vô minh đến từ bản ngã, tức luôn cho rằng mình biết đúng, nghĩ đúng, hiểu đúng nên không bao giờ chấp nhận bản thân có sai, có khiếm khuyết. Khoảnh khắc ta bắt đầu chấp nhận rằng những gì mình đang suy nghĩ hoặc những điều mình đang hiểu biết có thể sai thì khi đó ta mới có thể học hỏi những cái mới và cũng ngay lúc đó, ta mới bắt đầu phát triển được trí tuệ. Khi bắt đầu phát triển được trí tuệ, ta mới có thể diệt trừ được vô minh. Lúc đó 90% các vấn đề khó khăn trong cuộc sống của chúng ta sẽ được giải quyết một cách dễ dàng.
Ai cũng muốn nghe những lời nói ngọt ngào. Nói ngọt sẽ làm tăng bản ngã. Bản ngã chỉ thích nghe nói ngọt, không thích bị chê. Càng thích nghe người ta nói ngọt thì ta càng vô minh. Khi càng vô minh, ta sẽ càng chịu khổ nhiều hơn mà thôi.
Ở bước này, chúng ta hãy thực hành một bài tập: tự quan sát bản thân xem mình đang có tật xấu hay thói quen suy nghĩ tiêu cực nào. Tự nhìn nhận cái xấu của mình không phải là chuyện dễ dàng. Những thói quen xấu bình thường có thể dễ tìm ra, nhưng lối mòn suy nghĩ tiêu cực thì rất khó có thể nhận diện được. Muốn nhận diện được, chúng ta phải ngồi thiền để tự nhìn nhận lại bản thân mình. Hãy thiền từ 5-10 phút, dần dần chúng ta sẽ tìm ra những tật xấu hay những thói quen suy nghĩ tiêu cực. Cách thiền như thế gọi là thiền phân tích hay thiền quán chiếu.
Hãy tự tìm 3-5 tật xấu và 3 thói quen suy nghĩ tiêu cực và viết xuống giấy để xem việc học Lamrim có dần dần giúp ta giảm bớt thói quen xấu và suy nghĩ tiêu cực hay không.
II/ 3 ĐẶC ĐIỂM CỦA LAMRIM (xem trang 146, quyển 1)
- Đặc điểm thứ nhất: Lamrim toàn diện vì chứa đựng tất cả đề tài của kinh giáo và mật giáo
- Đặc điểm thứ hai: Lamrim dễ thực hành vì nhấn mạnh những bước điều phục tâm
- Đặc điểm thứ ba: Lamrim thù thắng hơn những truyền thống khác vì chứa đựng những chỉ giáo từ hai bậc thầy đã được học các truyền thống của hai bậc tiên phong
1/ Lamrim toàn diện vì chứa đựng tất cả đề tài của kinh giáo và mật giáo
Trong lúc Đức Phật còn tại thế, Ngài đã giảng rất nhiều thời giáp. Nếu chúng ta tìm một quyển sách chứa đựng tất cả nội dung giảng dạy của cả đời Đức Phật, đó chính là quyển Giải Thoát Trong Lòng Tay, còn gọi là Lamrim. Bởi vì nội dung của Lamrim rút trích, tổng hợp, hệ thống lại tất cả các điểm chính yếu mà Đức Phật đã từng giảng dạy.
Đức Phật đã giảng rất nhiều thời pháp và tất cả các thời pháp đó được ghi xuống thành kinh điển, cả hơn 100 bộ kinh. Nhưng Lamrim đã rút trích tất cả các điểm cốt lõi mà Đức Phật đã giảng dạy và hệ thống lại thành một thứ tự thực hành theo từng bước. Ta có thể so sánh theo cách thế này: với 1 giờ học Lamrim, ta học các điểm tinh túy mà Đức Phật đã giảng dạy tương đương học xong 1 bộ kinh. Cho nên 100 giờ học là học xong 100 bộ kinh.
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao nội dung ít như vậy mà Đức Phật giảng tới hơn 100 bộ kinh? Thời đó có lẽ người nghe pháp chưa đủ thông minh nên Đức phật phải lặp đi lặp lại những nội dung đó nhiều lần. Còn bây giờ con người thông minh hơn trước rất nhiều, cho nên trong thời gian ngắn 100 giờ có thể học xong nội dung của 100 bộ kinh. Thời nay con người rất thông minh mà còn có thêm công cụ trí tuệ nhân tạo (AI). Hỏi AI có thể cho mình nhiều thông tin hữu ích về đạo Phật.
2/ Lamrim dễ thực hành vì nhấn mạnh những bước điều phục tâm
Mục đích chủ yếu của Lamrim là giúp chúng ta có thể điều phục được tâm mình. Chúng ta nên biết một điều thế này: ai luyện tâm? Tâm có thể luyện được tâm, nhưng AI không thể tự luyện AI. Tháng 10 tới ở miền Bắc Ấn Độ có một hội thảo của các nhà khoa học và đạo Phật nói về chủ đề “sự khác biệt giữa AI và tâm thức”. Trong hội thảo đó, các thầy đã chọn Thầy làm đại diện để nói chuyện về chủ đề này. Điểm khác biệt là AI không thể tự huấn luyện nó được. Nhưng tâm thức của con người có thể tự luyện cho tâm của mình. Lamrim hướng dẫn chúng ta cách tự luyện tâm, tự điều phục tâm.
Một điểm khác biệt nữa giữa tâm thức và AI là tâm của con người có thể tự nhận diện được các thói quen suy nghĩ tiêu cực. Vì tâm con người có khả năng tự nhận diện được các thói quen xấu đó nên hoàn toàn có thể tự điều phục và huấn luyện tâm để diệt trừ các thói quen xấu đó. AI không có khả năng nhận diện các thói quen suy nghĩ chưa đúng đắn của nó nên không tự huấn luyện hay tự điều phục được nó.
Có nhiều người bên Mỹ hỏi Thầy là AI có giác ngộ được không? Để giác ngộ thành Phật, chúng ta cần phải tịnh hóa hết tất cả các suy nghĩ lệch lạc, phải thay đổi và chuyển hóa được tất cả các suy nghĩ tiêu cực đó. AI không nhận diện được các suy nghĩ chưa đúng đắn của nó, cũng không tịnh hóa được những suy nghĩ tiêu cực này thì làm sao thành Phật được.
Lamrim hướng dẫn chúng ta từng bước để điều phục tâm và chuyển hóa tâm mình trở nên tích cực hơn. Vì thế, ở đây nói rằng Lamrim dễ thực hành vì nhấn mạnh các bước điều phục tâm.
III/ CÁCH LẮNG NGHE PHÁP (xem trang 151, quyển 1)
Phần này bắt đầu nội dung chính của Lamrim là ta cần nghe pháp thế nào để có hiệu quả tốt nhất.
Khi nghe pháp, đầu tiên phải nói đến động cơ nghe pháp để làm gì. Chúng ta cần phải tìm hiểu về động cơ nghe pháp của mình. Nghe pháp không phải là chuyện giải trí để trôi qua thời gian rảnh rỗi. Nghe pháp không phải là nghe cho vui do không có gì làm. Đó không phải là mục đích của việc nghe pháp.
Chúng ta đừng nghĩ ngồi nghe pháp thôi là sẽ tích góp được công đức. Nghe pháp là học hỏi những kỹ năng và phương pháp để đối trị với những suy nghĩ, cảm xúc tiêu cực, để khi rơi vào tình huống khó khăn, ta biết cách ứng phó, vượt qua với tâm thái an lành. Điều đó không có nghĩa là cứ nghe pháp ở bất cứ chỗ nào đều có thể học hỏi được các kỹ năng đó. Trong một thời gian dài học giáo pháp mà vẫn không đối trị được tất cả suy nghĩ tiêu cực của mình thì ta phải đặt câu hỏi vị thầy đó đã dạy đúng cho mình kỹ năng đó hay chưa, hay ta đã học đúng đắn hay chưa. Giống như một bác sĩ chữa bệnh, không phải bác sĩ nào cũng có thể chữa hết bệnh. Bác sĩ giỏi có thể chữa hết căn bệnh của mình, nhưng bác sĩ không giỏi, không có kinh nghiệm thì có thể không chữa được căn bệnh của mình.
Những gì gặt hái được từ việc học pháp phải có ích lợi cho mình ngay trong đời này, chứ không phải chờ đến đời sau mới thấy được lợi lạc. Nếu làm một việc gì cũng không có công hiệu ngay bây giờ trong đời này thì làm sao còn trông mong nó sẽ có tác dụng ở đời sau. Cho nên vị thầy nào dạy pháp mà không tự tin cam kết với học trò là thực hành Phật pháp sẽ có lợi lạc ngay trong đời này, nghĩa là vị thầy ấy chưa có tự tin với trải nghiệm của bản thân và chưa có tự tin với sản phẩm của mình.
Nếu chúng ta vào một cửa hàng mua đồ mà nói chủ cửa hàng rằng: “Tôi lấy món đồ này nhưng đời sau mới trả tiền”, ông ta có đồng ý hay không? Hay chúng ta đặt mua một món hàng trên mạng và đã thanh toán tiền xong, nhưng chủ cửa hàng gửi thông báo là cửa hàng sẽ nhận tiền trước và đời sau sẽ gửi hàng cho mình thì ta có đồng ý không?
Chúng ta hay có suy nghĩ, thái độ rằng mình thực hành Phật pháp bây giờ là để cho đời sau được an lành, tốt đẹp. Thỉnh thoảng ta vẫn chấp nhận chuyện đó, đó là vì ta đang vô minh nên mới chấp nhận chờ đời sau mới gặt hái lợi lạc từ việc thực hành Phật pháp.
Chúng ta hãy khởi động cơ là học hỏi giáo pháp để áp dụng thực hành giáo pháp đó và có hiệu quả ngay trong đời này. Chúng ta đã đầu tư thời gian, công sức vào việc học pháp thì việc đầu tư đó phải mang đến lợi lạc ngay trong đời này, chứ không phải chờ đời sau mới có được lợi lạc.
Thầy kể một câu chuyện: có một vị thầy lúc nào dạy Phật pháp cho học trò cũng nói rằng: “Bây giờ các con thực hành Phật pháp để đời sau được sanh lên cõi tịnh độ của Phật A Di Đà”. Lúc nào giảng pháp, vị thầy đó cũng nói rằng đời này là bể khổ, nên để thoát khổ, phải tụng niệm hồng danh của Phật A Di Đà để đời sau được vãng sanh lên cõi tịnh độ của Phật A Di Đà. Đến một lúc nọ vị thầy bị ốm và đến gặp bác sĩ. Bác sĩ nói với vị thầy cần nghỉ ngơi hoàn toàn trong một tháng, đi sang Thụy Sĩ để nghỉ ngơi. Vị thầy trả lời rằng không có thời gian một tháng để nghỉ ngơi vì còn phải dạy học trò để họ được vãng sanh lên cõi tịnh độ của Phật A Di Đà. Bác sĩ khuyên mãi nhưng vị thầy không chịu nên cuối cùng vị bác sĩ nói rằng: “Thầy chỉ có 2 lựa chọn. Một là sang Thụy Sĩ một tháng để nghỉ ngơi cho khỏi bệnh. Hai là cứ ở đó rồi chờ lên cõi tịnh độ của Phật A Di Đà”. Vị thầy khá tức giận và rời khỏi phòng khám. 10 phút sau vị thầy lại gõ cửa phòng khám, đi vào và nói với bác sĩ rằng bây giờ thầy sẽ chọn đi sang Thụy Sĩ để nghỉ ngơi cho khỏi bệnh. Vị thầy lúc nào cũng dạy học trò là phải niệm hồng danh của Phật A Di Đà để được vãng sanh lên cõi tịnh độ của Phật A Di Đà. Nhưng đến khi bị bệnh, vị thầy lại chọn cho bản thân khỏi bệnh, chứ không có nghĩ ngay đến cõi tịnh độ của Phật A Di Đà. Điều đó có hợp lý hay không?
Phật luôn dạy rằng Phật pháp là dược liệu, là thuốc, uống thuốc để hết bệnh. Thực hành Phật pháp là để loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực trong tâm. Nếu thực hành Phật pháp mà không diệt được hết tất cả suy nghĩ tiêu cực thì ít nhất cũng giảm được 50% suy nghĩ tiêu cực. Đó cũng là một thành công từ việc thực hành Phật pháp. Cho nên động cơ học Phật pháp là học những kỹ năng và phương pháp để giúp bản thân, người thân, những người xung quanh điều phục được tâm mình.
Hãy nhớ rằng trong gia đình nếu một người đau buồn thì các thành viên còn lại sẽ đau buồn theo. Nếu trong gia đình có một người vui vẻ, tích cực thì năng lượng an lành đó sẽ lan tỏa, giúp cả gia đình an lành theo. Phật pháp có mục đích giúp lan tỏa năng lượng tích cực như thế. Ai cũng muốn gia đình được an lạc, hạnh phúc. Để gia đình được an lạc, hạnh phúc, bước đầu tiên là bản thân mình phải là người hạnh phúc trước. Khi đã hạnh phúc rồi, ta sẽ mang đến nhiều thay đổi tích cực cho gia đình mình. Đó là động cơ chính đáng cần phải có để dấn thân học và thực hành Phật pháp.
Thầy nói rằng chúng ta đọc thêm phần này trong sách Giải Thoát Trong Lòng Tay. Trang 152 có đoạn:
“Trong tác phẩm Những Lời Phật Dạy có nói:
Nhờ học pháp, mà bạn hiểu được pháp.
Nhờ học pháp, bạn chấm dứt gây tội
Nhờ học pháp, bạn từ bỏ những cái vô nghĩa
Nhờ học pháp, bạn đạt đến Niết bàn”.
Có 3 thứ quan trọng cần áp dụng: học pháp, hiểu pháp và hành pháp. Để học pháp, cần điều kiện gì quan trọng? Để hiểu pháp, cũng cần có điều kiện quan trọng nào? Và để thực hành Phật pháp, cũng cần có điều kiện quan trọng gì? Để học pháp, cần một điều kiện cực kỳ quan trọng. Để hiểu pháp, cũng cần một điều kiện rất quan trọng. Để thực hành Phật pháp, cũng cần một điều kiện quan trọng. Đó là Zoom. Để học pháp, hiểu pháp hay hành pháp thì đều cần có Zoom. Đây là một bài học rất quan trọng trong ngày hôm nay.
Thầy nói rằng chúng ta phải online vào lớp Zoom thì mới học được pháp, có Zoom mà không vào lớp thì cũng không học được gì. Đến giờ học, chúng ta phải vào lớp Zoom đúng giờ. Cho nên nhờ có Zoom, chúng ta có thể tham gia vào lớp học, học và hiểu được pháp cũng như thực hành được pháp, sau đó mang đến những thay đổi tích cực cho bản thân và gia đình. Tất cả mọi thứ xuất phát từ việc có Zoom và tham gia vào lớp học.
Bài tập về nhà là đọc sách Giải Thoát Trong Lòng Tay về cách lắng nghe pháp.
IV/ LÀM THẾ NÀO ĐỂ TỎ LÒNG KÍNH TRỌNG ĐỐI VỚI PHÁP VÀ NGƯỜI GIẢNG PHÁP (xem trang 160, quyển 1).
Sách Giải Thoát Trong Lòng Tay là cuốn sách chứa đựng rất nhiều kiến thức Phật pháp. Cho nên chúng ta hãy tỏ lòng tôn trọng đối với pháp, bắt đầu bằng việc tôn trọng cuốn sách. Hãy luôn đặt sách Giải Thoát Trong Lòng Tay ở trên bàn, hoặc nếu lúc nào bất tiện buộc phải đặt trên ghế thì hãy đặt trên ghế một mảnh vải rồi mới đặt sách trên mảnh vải, chứ đừng đặt sách trực tiếp lên ghế.
Trước khi mở sách ra đọc, ta hãy chạm sách trên đầu mình. Khi ngưng đọc sách và gập sách lại, hãy chạm sách lần nữa trên đầu mình. Động tác đó nghĩa là ta mong muốn có sự gia trì từ các nội dung rất linh thiêng từ quyển sách.
Khi học và hiểu hết Phật pháp, đưa vào áp dụng thực hành, bây giờ giác ngộ thành phật rồi thì chúng ta không cần sách Giải Thoát Trong Lòng Tay nữa, có thể quăng cuốn sách ấy đi. Đức Phật dạy rằng lời dạy của Ngài như chiếc bè đưa ta qua sông, khi đã qua được bên kia sông, tức lúc đó ta đã đạt được giải thoát, giác ngộ thành Phật rồi thì bỏ chiếc bè, không cần vác bè theo nữa.
Nội dung của sách Giải Thoát Trong Lòng Tay giúp ta loại trừ tất cả các phiền não, suy nghĩ tiêu cực để có được giải thoát giác ngộ. Một khi đã diệt trừ tất cả các suy nghĩ tiêu cực rồi, ta không cần đến quyển sách này nữa. Nhưng từ đây cho đến lúc đạt được giác ngộ, ở khoảng giữa đó, ta vẫn còn phiền não, vẫn còn suy nghĩ tiêu cực thì vẫn còn cần sách Giải Thoát Trong Lòng Tay để nương tựa vào đó, tiếp tục thực hành. Do đó, chúng ta nên tỏ lòng kính trọng đối với sách Giải Thoát Trong Lòng Tay và những nội dung hướng dẫn trong sách.