
TUẦN 4 – NGÀY 24/05/2025
CHỦ ĐỀ: TIỂU SỬ CỦA NGÀI ATISHA VÀ 4 TÍNH VĨ ĐẠI CỦA LAMRIM
(Tôn sư Khangser Rinpoche hướng dẫn)
I/ TIỂU SỬ CỦA NGÀI ATISHA
Hôm nay Thầy tiếp tục hướng dẫn về tiểu sử của Ngài Atisha (xem Ngày thứ 2 - Giải Thoát Trong Lòng Tay, quyển 1)
Ngày thứ 2 kể những câu chuyện về tiểu sử của Ngài Atisha. Ngài Atisha là người đã hệ thống hóa lại các bước tu tập từ kinh điển của Đức Phật. Một trong những tư tưởng vĩ đại của Ngài Atisha là tu tập Phật pháp chủ yếu là phải luyện tâm, điều phục được tâm mình. Từ những lời dạy của Ngài Atisha đã hình thành dòng truyền thừa luyện tâm.
Sau thời của Ngài Atisha khá lâu đã xuất hiện một vị thầy vĩ đại là Ngài Tsongkhapa, thường được gọi là Lama Tsongkhapa. Ngài Tsongkhapa đã có một công trình vĩ đại, đó là giải thích chi tiết những hướng dẫn của Ngài Atisha. Khi Ngài Atisha hướng dẫn các phương pháp luyện tâm, đưa ra trình tự tu tập thì không có nói rõ các trình tự như thế đã được rút trích từ kinh điển nào của Đức Phật và được hướng dẫn ở đâu. Sau này Lama Tsongkhapa đã đưa vào những dẫn chứng từ kinh điển của Đức Phật để chứng minh các trình tự tu tập mà Ngài Atisha nói đến đều xuất phát từ kinh điển của Đức Phật.
Ta phải hiểu những lời dạy của Đức Phật theo quan điểm của Đức Phật, nghĩa là phải hiểu lời dạy của Đức Phật theo ý thật của Ngài, chứ không phải hiểu theo cách của riêng mình. Lama Tsongkhapa là vị đạo sư rất nổi tiếng đã trình bày chi tiết tất cả quan điểm thực hành về luyện tâm. Phật có ngụ ý gì trong các bài giảng của Ngài thì Lama Tsongkhap đã trình bày rất cặn kẽ và chi tiết.
Có 3 nhân vật vĩ đại mà chúng ta cần phải tìm hiểu trong suốt chương trình học của mình. Đó là Đức Phật Thích Ca, Ngài Atisha, Lama Tsongkhapa.
Thầy kể câu chuyện: Có một vị thầy lớn, vị thầy này không có thói quen nói chuyện với người khác nên dặn thị giả của mình rằng: “Nếu có khách tới, con nói chuyện với họ, chứ ta không có nói chuyện”. Vị thị giả nói với sư phụ của mình rằng: “Khách đến thăm đều muốn nói chuyện với thầy, thầy chịu khó nói chuyện với họ nhé”. Vị thầy này trả lời: “Nhưng ta không có quen nói chuyện với người khác, ta không biết phải nói như thế nào”. Vị thị giả nói rằng: “Có khách đến thăm, chào hỏi thì sư phụ chỉ cần hỏi tên họ là gì, bao nhiêu tuổi..., hỏi những câu đơn giản thôi”. Một dịp nọ có 2 cha con đến gặp vị thầy. Người cha nói với vị thầy rằng: “Con là cha, đây là con trai của con”. Vị thầy mới hỏi lại: “Đây là cha, đây là con, vậy ai lớn tuổi hơn?”. Vị thầy đó nói chuyện cho có chứ không biết mình đang nói gì.
Khi tìm hiểu về Đức Phật Thích Ca, về Ngài Atisha, Lama Tsongkhapa thì chúng ta nên hiểu hơn về trình tự xuất hiện của các vị như thế nào. Hầu hết chúng ta đều biết về Đức Phật Thích Ca. Ngài sinh ra ở Nepal. Còn Ngài Atisha xuất hiện ở cuối thế kỷ 10, đầu thế kỷ 11, được sinh ra ở Bangladesh và từng học tập ở Ấn Độ. Lama Tsongkhapa thì xuất hiện ở cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13, được sinh ra ở Tây Tạng.
Những lời Phật dạy được ghi chép trong kinh điển, sau đó Ngài Atisha mới biên soạn thành thứ tự thực hành mà ta gọi là Lamrim. Ta có hiểu đơn giản Lamrim giống như hệ điều hành Android hay iOS chạy trên điện thoại giúp định hướng các pháp thực hành của mình. Hãng điện thoại Nokia thời xưa rất nổi tiếng, sau này cũng làm hệ điều hành riêng nhưng dự án đó không thành công. Bây giờ ta phải tìm một chiếc điện thoại hoàn toàn mới và chuẩn bị tải một hệ điều hành mới vào tâm thức của mình. Đó là “hệ điều hành” Lamrim.
Tóm lại, Đức Phật đã giảng từ các trải nghiệm giác ngộ của Ngài. Ngài Atisha chính là người đã đúc kết những lời dạy của Phật thành trình tự tu tập. Sau đó, Lama Tsongkhapa đưa ra các dẫn chứng từ trong kinh điển của Đức Phật để chứng minh cho trình tự tu tập mà Ngài Atisha đã đúc kết.
II/ 4 TÍNH VĨ ĐẠI CỦA LAMRIM
Có một lần khi Thầy ở Việt Nam, một anh thanh niên nói với Thầy rằng mẹ anh thường hay đi chùa, hễ có thời gian rỗi là đi chùa. Anh ấy hỏi mẹ: “Mẹ đi chùa thì có ích lợi gì?”. Mẹ anh đã đưa ra một lý do khiến anh ấy không hài lòng.
Cũng giống như vậy, Thầy đặt một câu hỏi: “Nếu mang tiền đi gửi tiết kiệm hoặc đi đầu tư, chúng ta có mong muốn những đồng tiền đó sinh lời?” Chắc chắn ai cũng muốn có lời. Việc thực hành Phật pháp cũng vậy. Một khi đã đầu tư thời gian vào thực hành Phật pháp mà thời gian là thứ quý giá nhất, nên chúng ta phải thu được lợi nhuận rất cao từ việc đầu tư thời gian của mình. Nếu thực hành Phật pháp theo Lamrim, vậy Lamrim có những lợi ích gì đáng để cho chúng ta bỏ thời gian và công sức tu tập?
Ngày thứ ba nói về 4 tính vĩ đại của Lamrim (xem trang 129 - Giải Thoát Trong Lòng Tay, quyển 1). 4 tính vĩ đại ở đây chính là những lợi ích thiết thực từ Lamrim.
Một là tính vĩ đại giúp bạn nhận ra rằng mọi giáo lý đều nhất quán.
Hai là tính vĩ đại khiến mọi kinh điển đối với bạn đều trở thành lời chỉ giáo.
Ba là tính vĩ đại giúp bạn dễ dàng khám phá ý thật của Phật.
Bốn là tính vĩ đại giúp bạn tự cứu mình khỏi những tà hạnh.
1/ Tính vĩ đại giúp bạn nhận ra rằng mọi giáo lý đều nhất quán.
Sau khi học hệ thống và trình tự của Lamrim, chúng ta hiểu rõ rằng bất cứ lời chỉ dạy nào của Đức Phật hoàn toàn không mâu thuẫn với nhau, đều nhất quán với nhau.
Thầy nói rằng có nhiều người thường hay hỏi Thầy làm thế nào phân biệt các nền Phật giáo khác nhau. Ví dụ, có một lần ở đài truyền hình tại Hàn Quốc, có người hỏi Thầy rằng Phật giáo Hàn Quốc và Phật giáo Tây Tạng khác nhau như thế nào? Thầy trả lời không có Phật giáo Tây Tạng, không có Phật giáo Nhật Bản, cũng không có Phật giáo Trung Hoa…
Ta hãy xem xét như thế này: Có khoa học Hàn Quốc, khoa học Nhật Bản, khoa học Trung Hoa hay không? Chắc chắn là không. Khoa học là về tính hợp lý, tính thực tế, lập luận nên khoa học là khoa học, không có phân biệt khoa học Hàn Quốc hay khoa học Nhật Bản... Cũng giống như vậy, Phật giáo nói về trình tự làm sao chuyển hóa và điều phục tâm mình. Phật giáo là một môn khoa học. Mà đã là khoa học, làm gì có sự phân biệt giữa Phật giáo Tây Tạng hay Phật giáo Hàn Quốc, Phật giáo Nhật Bản…
Tuy nhiên, có nhiều truyền thống văn hóa khác nhau như truyền thống văn hóa Nhật Bản, truyền thống văn hóa Hàn Quốc… Ví dụ, một người ngu ngốc làm một điều ngu ngốc thì ta gọi đó là người ngu. Nhưng nếu vị sếp trong công ty lỡ làm việc gì ngu ngốc thì ta không nói sếp ngu mà nói sếp thật hài hước. Nhưng cả ngàn người cùng làm một việc ngu ngốc với nhau thì không gọi là ngu, mà gọi đó là văn hóa, là truyền thống. Khi đã trở thành chuyện lặp đi lặp lại, thành thói quen, truyền thống rồi thì ta sẽ không đặt câu hỏi tại sao làm như vậy, vì là truyền thống nên người ta làm thì mình làm.
Nếu Thầy cầm một mẩu giấy bằng tay trái và đưa cho chúng ta, chúng ta có bị phiền lòng không. Thầy không nghĩ chúng ta sẽ cảm thấy phiền lòng. Nhưng nếu Thầy dùng tay trái đưa mẩu giấy cho người Nepal thì chắc chắn họ sẽ cảm thấy khó chịu. Vì theo văn hóa của người Nepal, đưa bằng tay trái là cử chỉ thiếu tôn trọng người khác, đưa bằng tay phải mới là cách làm đúng.
Nếu thầy kẹp tờ giấy giữa 2 ngón tay đưa cho người Nepal bằng tay phải thì người Nepal không cảm thấy phiền lòng, nhưng đối với người Mông Cổ, kẹp tờ giấy vào giữa 2 ngón tay đưa cho họ là bất lịch sự, thiếu tôn trọng người khác. Nếu Thầy cầm tờ giấy bằng cả bàn tay đưa cho người Mông Cổ thì họ không cảm thấy phiền lòng và cả người Nepal cũng không bị phiền lòng. Nhưng người Nhật sẽ cảm thấy phiền lòng. Theo văn hóa của người Nhật, đưa đồ vật bằng 2 tay mới thể hiện thái độ kính trọng. Thêm nữa, người Nhật muốn đưa vật gì thì họ sẽ đặt vật đó lên bàn và đẩy trước mặt người khác thì mới thể hiện sự tôn trọng.
Có những truyền thống văn hóa khác nhau ở nhiều vùng miền khác nhau. Không giống như vậy, đạo Phật là môn khoa học về tâm thức nên những lời dạy của Phật không hề mâu thuẫn với nhau.
Lợi ích của việc học Lamrim là Lamrim đã hệ thống hóa lời dạy của Đức Phật, nên ta sẽ thấy được tính nhất quán và không mâu thuẫn trong những lời dạy của Đức Phật. Đôi lúc ta thấy mâu thuẫn khi đọc kinh Phật là do tâm ta không thông suốt. Sau khi học xong Lamrim, tất cả những nghi ngờ, thắc mắc của mình trước đây đều được làm sáng tỏ, ta sẽ thấy mọi vấn đề rất thấu suốt. Khi muốn đưa ra quyết định gì, phải thấu suốt được vấn đề. Trong cuộc sống, ta có nhiều hoang mang, bối rối. Vì hoang mang, bối rối nên ta nhìn nhận vấn đề một cách phức tạp, thậm chí dù là một vấn đề rất dễ dàng, ta cũng khó có thể nào đưa ra được quyết định đúng đắn. Chính những hoang mang, bối rối trong tâm sẽ khiến mình sợ hãi, từ đó mất tự tin.
Vì Lamrim có tính lập luận, tính thực tế, nên học các phương pháp lập luận của Lamrim sẽ giúp ta trở nên nhạy bén, sắc sảo hơn, từ đó phát triển được trí tuệ. Khi đã có trí tuệ, ta sẽ nhìn nhận các vấn đề một cách thông suốt hơn, sẽ cảm thấy ít hoang mang, bối rối hơn, từ đó sẽ dễ dàng đưa ra quyết định đúng đắn.
Chúng ta nên phân biệt tri thức và trí tuệ là 2 điều khác nhau. Trí tuệ nhân tạo có tri thức, thu thập được các kiến thức nhưng không có trí tuệ thực sự.
Thầy kể câu chuyện về một buổi giảng pháp của Thầy. Một người tham dự buổi giảng của Thầy và có đọc tiểu sử của Thầy, sau đó đến gặp Thầy và kể với Thầy rằng trong tiểu sử có ghi Thầy đã làm những việc này, việc kia. Thầy hỏi bản tiểu sử đó anh ta đã lấy từ đâu. Anh ta nói là hỏi ChatGPT. ChatGPT đã đưa ra một bản tiểu sử về Thầy, trong đó có những hoạt động Thầy không biết mình có làm nhưng lại xuất hiện trong bản tiểu sử.
Trí tuệ nhân tạo chỉ có tri thức chứ không có trí tuệ. Tri thức là những điều mình biết thế này thế kia, chưa chắc những điều đó là đúng. Trí tuệ sẽ giúp ta trở nên sáng suốt, thấy rõ bản chất thực sự của vấn đề. Tri thức không như vậy. Khi học Lamrim, ta sẽ bớt hoang mang, bối rối vì nhờ học Lamrim, chúng ta đã phát triển được trí tuệ.
2/ Tính vĩ đại khiến mọi kinh điển đối với bạn đều trở thành lời chỉ giáo.
Tính vĩ đại thứ 2 của Lamrim là tất cả mọi chỉ dạy trong kinh điển đều là chỉ giáo thực hành. Chúng ta cần nhìn nhận những lời dạy của Đức Phật giống như lời khuyên của Phật dành cho mình. Đức Phật đã giảng rất nhiều kinh điển. Tất cả lời giảng của Đức Phật chủ yếu khuyên chúng ta thực hành để chuyển hóa được bản thân. Cho nên, điều đầu tiên là ta cần phải hiểu được lời dạy của Phật. Khi không hiểu được Phật đang khuyên mình những gì thì làm sao có thể thực hành theo như lời Phật dạy. Học Lamrim sẽ giúp ta hiểu được những lời dạy của Phật thực chất là kim chỉ nam, là pháp thực hành cho bản thân mình.
Thầy đặt câu hỏi: Khi buồn hay sợ hãi, lo âu, ta phải làm gì? Đối với một người không biết rõ bản chất của vấn đề, mỗi lần có chuyện buồn phiền, sợ hãi, họ khó có thể nào tìm ra phương pháp đúng đắn để giải quyết vấn đề của mình.
Những lời dạy của Đức Phật chủ yếu là những lời khuyên giúp ta chuyển hóa tâm trạng của mình từ tiêu cực thành tích cực, giúp ta vượt qua nỗi buồn, lo âu, sợ hãi… Nói cách khác, lời khuyên của Đức Phật giúp ta có một cuộc sống tích cực hơn, an lành hơn.
Thầy kể câu chuyện về cháu gái của Thầy năm nay 7 tuổi. Cháu gái của Thầy được dạy thiền ở trong trường mẫu giáo. Khi biết trường mẫu giáo ở Nepal có dạy thiền cho trẻ, Thầy rất ngạc nhiên và hỏi cháu gái rằng: “Nhà trường dạy con thiền như thế nào?” Cháu gái của Thầy nói là trường dạy ngồi xếp bằng. Thầy hỏi thêm: “Lúc ngồi như vậy thì tâm mình suy nghĩ điều gì?” Đối với câu hỏi này, cháu gái của Thầy không biết gì cả, thiền đối với cháu gái của Thầy chỉ là ngồi sao cho đúng tư thế mà thôi.
Phật đã khuyên rất nhiều và trong các lời khuyên, Phật hướng dẫn chúng ta khi buồn phiền nên thiền gì, khi sợ sệt, lo âu nên thiền gì. Ta cần học và hiểu tất cả lời khuyên của Đức Phật để khi gặp đúng vấn đề, ta biết nên dùng phương pháp nào là phù hợp. Không có một phương pháp thiền nào giải quyết hết tất cả mọi vấn đề. Học Lamrim sẽ giúp ta hiểu rõ tận tường nên áp dụng giải pháp nào cho mỗi một vấn đề của mình.
4 tính vĩ đại của Lamrim giúp ta hiểu được rằng chúng ta sẽ có được lợi lạc gì sau khi học Lamrim. Giống như khi gửi tiết kiệm vào ngân hàng thì sẽ có bảng lãi suất ghi rằng sau một kỳ hạn, ta sẽ thu về bao nhiêu phần trăm tiền lãi. Học xong Lamrim sẽ cho ta lợi lạc giống như thế.
Thầy đặt tình huống: Giả sử gửi tiết kiệm kỳ hạn 1 năm, sau 1 năm chúng ta sẽ nhận 6% lãi. Nếu sau 1 năm, ngân hàng không trả 6% tiền lời thì ta sẽ kiện ngân hàng, chứ không có kiện người quản lý ngân hàng. Tương tự như vậy, Thầy nói rằng nếu học Lamrim xong, chúng ta vẫn không trải nghiệm được 4 lợi lạc này thì hãy kiện Phật, kiện Ngài Atisha chứ không kiện Thầy vì Thầy chỉ là người truyền tải lại (Rinpoche cười). Nếu rơi vào tình huống này, người quản lý ngân hàng sẽ trấn an rằng từ xưa đến nay chưa bao giờ có trường hợp nào ngân hàng không trả lãi cả. Giống như vậy, Thầy cũng nói với học viên rằng từ xưa đến giờ, những ai đã tiếp cận và học Lamrim thì ít nhiều đã hiểu được giáo pháp của Đức Phật và có được rất nhiều lợi lạc nên chúng ta cứ yên tâm theo học Lamrim. Đó là tính vĩ đại thứ 2 của Lamrim, giúp ta cho thấy được những lời dạy của Phật đều là những lời khuyên thực hành cho bản thân.
3/ Tính vĩ đại giúp bạn dễ dàng khám phá ý thật của Phật.
Tính vĩ đại thứ 3 của Lamrim là khám phá được ý thật của Phật. Nghĩa là ta sẽ hiểu được đằng sau những lời khuyên của Đức Phật, Ngài nghĩ thế nào, Ngài có ngụ ý thâm sâu gì khi đưa ra những lời khuyên đó.
Thầy đặt câu hỏi: Chúng ta có biết món ăn, thức uống yêu thích nhất của Đức Phật là gì không? Lỡ thực phẩm mà chúng ta hay cúng lên Đức Phật lại là các món mà Phật không thích thì sao? Để biết món mà Phật thích nhất, ta không nên hỏi người khác mà hãy hỏi chính bản thân mình. Chúng ta thích món nào nhất thì cũng là món yêu thích nhất của Đức Phật. Cho nên, ta hãy cúng dường những gì mình trân trọng và quý giá nhất thì cũng thành món trân trọng và quý giá nhất đối với Đức Phật.
Vậy lỡ chúng ta thích uống bia và chúng ta cúng bia lên Đức Phật thì bia cũng trở thành món Phật thích uống nhất? Khi Thầy nói vậy, chắc trong tâm của chúng ta do dự không biết chắc có được cúng bia lên Đức Phật hay không. Sự hoang mang, bối rối đó là do truyền thống. Theo truyền thống, xưa giờ không ai cúng bia cho Phật cả. Vì truyền thống nên ta nghĩ rằng không được cúng bia, chứ không có lập luận gì chứng minh rằng Phật không thích uống bia.
Ở đây Thầy chỉ muốn cho chúng ta thấy cách suy nghĩ của mình như thế nào thôi, chứ Thầy không khuyên chúng ta cúng dường bia cho Đức Phật. Đừng hiểu lầm ý của Thầy. Bản thân Thầy hay cúng dường Coca-cola lên Đức Phật. Những món nào mình yêu thích nhất thì khi cúng dường Phật, chắc chắn sẽ thành món yêu thích của Đức Phật.
Những ví dụ ở trên là để chứng minh rằng từ xưa giờ ta nghĩ mình kính Phật, cúng dường cho Phật nhưng thực ra ta đối xử với Phật như đối xử với một người mà mình không am hiểu. Đối với một người mà ta không am hiểu tận tường, cách đối xử của mình sẽ rất hời hợt.
Tất cả các lời khuyên của Phật dành cho mình có ngụ ý như thế nào, chúng ta sẽ hiểu được qua Lamrim. Điều quan trọng là ta phải hiểu được ý thật của Phật. Một khi không hiểu ý của Phật, dù ta có thành kính cúng dường, có đối xử với Phật như thế nào thì cũng như đối xử với một người xa lạ.
Trong suốt chương trình Lamrim, chúng ta sẽ học được rằng Phật dạy không nên chỉ tin Phật mà phải hiểu Phật. Tin mà không hiểu thì không có giá trị nhiều. Hiểu biết quan trọng hơn niềm tin. Khi không biết gì mà đã vội đặt niềm tin, tin tưởng mà không hề có lý trí và sự hiểu biết thì niềm tin đó sẽ trở thành mê tín.
Từ Lamrim, ta sẽ hiểu được ngụ ý thật sự của Phật như thế nào. Đức Phật là một bậc toàn giác, tức thấu biết hết tất cả mọi sự thật tận cùng rốt ráo, nên ý thật của Phật là sự thật tận cùng rốt ráo, hay còn lại là chân lý. Đó chính là tánh không.
Tánh không nghĩa là gì? Làm sao có thể hiểu được tánh không? Chỉ có một cách để hiểu được ý thật của Phật và cũng chỉ có một cách để hiểu được tánh không. Đó là Zoom. Nếu chúng ta lên lớp học Zoom đều đặn thì đến năm sau, ở phần cuối sách Giải Thoát Trong Lòng Tay, chúng ta sẽ được học kỹ về tánh không. Và dần đần thông qua lộ trình Lamrim, chúng ta sẽ được học tất cả các điểm giáo lý cốt lõi mà Đức Phật đã giảng dạy và bắt đầu sẽ thấy có lợi lạc.