02-11-2025
Lamrim 2024
Download MP3

TUẦN 61 - NGÀY 02/11/2025

CHỦ ĐỀ: THỰC HÀNH TÂM BỒ ĐỀ (tiếp theo)

(Geshe Lharampa Thabkhe Lodroe hướng dẫn)

Thầy và học viên cùng phát khởi động cơ thanh tịnh trước buổi học pháp. Bắt đầu tụng kệ Quy y Tam Bảo và phát tâm bồ đề (3 lần). Chúng ta đang thực hành pháp Đại thừa, không những nghĩ đến lợi ích của bản thân, mà hãy nghĩ đến lợi lạc của tất cả mọi chúng sanh. Với động cơ bắt đầu đúng đắn và kết thúc bằng việc hồi hướng, việc học pháp mới trọn vẹn, thành tựu viên mãn.

PHẠM VI LỚN

I) Bồ đề tâm là cửa ngõ duy nhất vào Đại thừa – những lợi ích của bồ đề tâm.

II) Làm thế nào để phát tâm bồ đề.

1) Những giai đoạn luyện tâm bồ đề gồm: Luyện tâm theo chỉ giáo 7 lớp nhân quả và luyện tâm bằng cách đổi địa vị mình với người.

Luyện tâm theo chỉ giáo 7 lớp nhân quả. Theo đó, 6 nhân gồm tất cả hữu tình đều đã là mẹ ta, nhớ lại sự tử tế của họ, đền đáp sự tử tế của họ, thiền định về tâm từ năng lực lôi cuốn ta đến với họ, tâm đại bi, tâm vị tha. Quả là tâm bồ đề.

Bước 5: Tâm đại bi (xem Giải Thoát Trong Lòng Tay, quyển 2, trang 166).

Thầy sẽ nói về tâm từ bi theo hướng xã hội và tâm đại bi theo Lamrim.

Thế giới ngày nay đối mặt với nhiều xung đột chiến tranh, chính trị, cạnh tranh kinh doanh không lành mạnh. Ta thường nghĩ rằng không xuất hiện tâm từ bi tại những nơi có nhiều xung đột chiến tranh, nhưng thực ra, việc áp dụng, phát triển tâm từ bi là điều cần thiết.

Người Tây Tạng luôn tin rằng Đức Quan Thế Âm là biểu tượng của tâm từ bi. Đức Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Đức Quan Thế Âm tâm từ bi. Ngài đã đối mặt với vô vàn khó khăn như mất nước, thiếu tiện nghi trong cuộc sống nhưng Ngài vẫn giảng pháp rất nhiều về thực hành phát triển tâm từ bi ở các quốc gia nên được nhiều người trên thế giới tôn kính, quý mến và Ngài đã nhận giải Nobel Hòa bình năm 1989.

Thầy trích dẫn câu nói nổi tiếng của Đức Đạt Lai Lạt Ma: “Whenever there is a challenge, there is also an opportunity to face it, to demonstrate and develop our will and determination” (Khi gặp bất kỳ thử thách nào, đó cũng chính là cơ hội để chúng ta nhìn thẳng vào nó, để rèn luyện ý chí và tâm kiên định của mình).

“Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them, humanity cannot survive” (Tình thương và lòng bi mẫn là nhu cầu, không phải xa xỉ phẩm. Thiếu vắng chúng, nhân loại khó có thể tồn tại).

Nếu trong xã hội, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp không có tâm từ bi thì không thể nào tồn tại.

Đức Phật đã hỏi các đệ tử rằng: “What is the one value, that if you have it in the palm of your hand, you have all values in the palm of your hand? It is great compassion” (Giá trị nào, nếu ta nắm giữ được trong lòng bàn tay, thì cũng đồng thời nắm giữ tất cả mọi giá trị khác? Đó chính là tâm đại bi).

Thế giới ngày nay phát triển nền công nghiệp hiện đại, khoa học, công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) tiên tiến nhưng tâm của chúng ta lại thường có nhiều cảm xúc tiêu cực, lo âu. Để tâm được an lạc, chúng ta cần thực hành thiền về tâm từ bi.

Nhà Phật học người Mỹ Alan Wallace nói rằng: “The exponential growth of scientific knowledge in the past century didn’t correspond to any comparable growth in human happiness, though advances in medicine have certainly contributed to enormously to our physical well-being" (Sự phát triển vượt bậc của tri thức khoa học trong thế kỷ vừa qua không đi đôi với sự gia tăng tương xứng về hạnh phúc của con người, dù những tiến bộ trong y học thực sự đã đóng góp to lớn cho sức khỏe thể chất của chúng ta).

Tâm từ là tâm yêu thương mong muốn chúng sinh có cuộc sống an vui. Vì chúng sinh từng có công ơn với mình nên ta phát tâm yêu thương chúng sinh đó.

Tâm bi là tâm mong muốn cho tất cả chúng sinh hết khổ. Sau khi có tâm từ (lòng yêu thương đối với tất cả mọi chúng sinh) thì phát triển tâm bi.

Nhịp sống tại các thành phố lớn hiện đại như New York, Delhi, Bangalore thường rất bận rộn. Những người sống ở đó hay phải đối mặt với nhiều trở ngại và ít có bạn thân, cảm thấy cô đơn và đa nghi nên họ khó có thể phát triển tâm từ bi và càng gặp nhiều vấn đề.

Thầy kể câu chuyện: trong chiến tranh thế giới thứ 2 có rất nhều trẻ em mồ côi bị thiếu ăn. Có vị chiến sĩ đến cho các bé chén súp nhưng đến gần cuối thì hết thực phẩm cho các bé xếp hàng ở phía sau. Lúc ấy, vị chiến sĩ rất thương xót liền ôm chặt đứa bé vào lòng và bật khóc. Tất cả các bé phía trước đã nhận thức ăn cũng chạy đến ôm chặt vị chiến sĩ và bật khóc vì các em cảm nhận được tình yêu thương từ vị chiến sĩ đó. Câu chuyện này nói lên một điều rằng, nỗi đau khổ do thiếu lòng yêu thương, từ bi còn mãnh liệt hơn cả đau khổ do đói khát.

Trong kinh doanh, nếu chúng ta áp dụng tâm từ bi đối xử thân thiện giữa người bán và người mua thì sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn.

Chúng ta thường nghĩ rằng “Tôi chỉ là con người nhỏ bé, không thể giúp người khác hết khổ”. Đó là suy nghĩ chưa đúng. Có một câu chuyện ở Argentina, cậu bé bắt từng con sao biển bị trôi dạt trên bờ và đem bỏ lại xuống biển để cứu sinh mạng của chúng. Một người lớn đến hỏi cậu bé rằng: “Con cứu từng con sao biển bỏ lại xuống nước thì cũng không có ích lợi gì vì sóng biển cũng đánh trôi dạt hàng ngàn con sao biển lên bờ lại thôi”. Cậu bé đã trả lời rằng: “Điều con quan tâm là con sao biển được về với biển cả thì chúng sẽ được sống, chứ không chú ý đến việc có lợi ích hay không. Cho nên, chúng ta không nên nghĩ rằng mình không có năng lực giúp các chúng sinh hết khổ mà hãy cố gắng làm trong khả năng nhất có thể để đem lại lợi lạc cho chúng sinh.

Khi chúng ta giúp đỡ chúng sinh khác thì họ sẽ quý mến mình. Khoa học ngày nay phát triển các công nghệ, phần mềm như Facebook, AI... khiến chúng ta chỉ muốn làm việc, hỏi thăm giao tiếp và kết bạn mới chưa từng quen biết qua công nghệ và giảm dần việc gặp nhau, cùng chia sẻ trò chuyện với gia đình, người thân, bạn bè. Vì vậy, tâm từ bi rất cần thiết, giúp chúng ta kết nối lại với nhau.

Tâm từ bi theo hướng xã hội thì không xem quan trọng có kiếp trước kiếp sau, chỉ cần chú trọng hành động phát triển tâm từ bi tự nhiên.

Tâm từ bi theo Lamrim chủ yếu phát triển dựa trên nền tảng công nhận có kiếp trước, kiếp sau, từ đó phát sinh ra một trình tự để ta có thể thực hành phát triển tâm bồ đề.

Phương pháp 7 lớp nhân quả thiền quán rằng tất cả mọi chúng sinh hữu tình từng là cha, là mẹ của mình trong những đời quá khứ.

Thực hành thiền (2 phút)

Bước 1: Thả lỏng toàn thân, nhắm mắt nghĩ về đạo sư, cha mẹ, anh chị em trong gia đình.

Bước 2: Nhớ lại sự tử tế của họ đã giúp đỡ, yêu thương mình như thế nào.

Bước 3: Cảm nhận được cảm giác như thế nào khi nghĩ về họ.

Thầy thiền nhớ về đạo sư đã viên tịch. Sư phụ đã chăm sóc yêu thương Thầy lúc nhỏ. Thầy luôn có cảm giác bình an, dễ chịu thoải mái, hạnh phúc khi nhớ về sư phụ. Thầy nghĩ rằng khi nghĩ về người mình yêu thương nhất thì sâu thẳm trong tâm của chúng ta sẽ có cảm xúc thoải mái, bình an, hạnh phúc.

Luận sư Nguyệt Xứng nói trong phần mở đầu tác phẩm Thực Hành Trung Đạo (xem Giải Thoát Trong Lòng Tay, quyển 2, trang 166).

Tình yêu là hạt giống cho mùa gặt lớn –

Quả vị một đấng Chiến thắng.

Nước tình yêu làm mùa tăng trưởng,

Để chín thành kết quả ước mong,

Sẵn sàng để sử dụng.

Chính vì thế mà ngay từ đầu

Tôi ca tụng tâm đại bi”.

Tâm đại bi quan trọng như hạt giống Phật và con đường đặt nặng tâm đại bi mới bảo đảm chính là Đại thừa. Đại bi cũng thiết yếu như nước và phân vì nó giúp ta kiên trì suốt con đường; nó như áo giáp chống lại sự thiếu thốn trong khi làm những phận sự hằng ngày của người con Phật. Cuối cùng tâm đại bi quan trọng ngang hàng với Phật quả vì nhờ có tâm đại bi mà ta tiếp tục làm các thiện sự ích lợi cho hữu tình sau khi đã thành Phật. Tâm bồ đề nơi bạn có năng lực yếu hay mạnh cũng tùy thuộc vào năng lực tâm đại bi; và chư Bồ Tát trải qua lộ trình tu tập nhanh hay chậm cũng tùy thuộc vào năng lực tâm đại bi nơi họ. Do năng lực đại bi mà chư Bồ Tát đi vào các Mật điển để tìm con đường nhanh và họ nhanh chóng hoàn tất con đường Mật tông nhờ mãnh lực tâm đại bi trong họ”.

Thông thường, ta thường đảnh lễ Tam Bảo, nhưng luận sư Nguyệt Xứng thường đảnh lễ tâm đại bi. Tác phẩm Nhập Bồ Tát Hạnh có đề cập đến tâm đại bi.

Người phương Tây thường nghĩ về lòng trắc ẩn. Ví dụ, học sinh ở trường thường tự ti về thành tích học tập của mình với những học sinh có kết quả học tập tốt. Họ nghĩ rằng “Tôi không giỏi, tôi không được như người khác, tôi không biết nhiều thứ, tôi không ổn...” Hay phụ nữ thường so sánh vẻ đẹp của mình với người phụ nữ khác rằng “Tôi không đẹp, tôi không được như cô ta...” Điều đó khiến tâm họ không hạnh phúc, hay căng thẳng lo âu, suy nghĩ tiêu cực, không thích bản thân mình. Cho nên, chúng ta cần thay đổi tư duy nhận thức, chấp nhận có vừa đủ như là “tôi có thức ăn ngon, có sức khoẻ tốt, có gia đình hạnh phúc...” Thay đổi suy nghĩ như vậy sẽ giúp cho tâm mình dễ chịu, hạnh phúc hơn. Hoặc suy nghĩ rằng sinh ra trong cõi luân hồi này, ai cũng có những nỗi đau khổ riêng, cũng mắc lỗi lầm, gặp nhiều khó khăn, trở ngại, không chỉ riêng mình mới có đau khổ. Cho nên, hãy phát tâm từ bi tự động viên an ủi cho chính mình thay vì so sánh với người khác.

Thực hành thiền về lòng trắc ẩn (1 phút):

Bước 1: Nghĩ về cha mẹ, người thân, bạn bè gặp tình huống xấu như bệnh nặng, tai nạn xe, qua đời, gặp vấn đề nan giải...

Bước 2: Hãy suy nghĩ sẽ động viên an ủi họ như thế nào. Thông thường, chúng ta sẽ nói rằng “tôi xin lỗi”, “tôi sẽ giúp bạn cầu nguyện vượt qua tình huống khó khăn này”, “tôi sẽ giúp bạn”...

Bước 3: Nghĩ về trường hợp chính bản thân mình rơi vào tình huống xấu như bệnh nặng, tai nạn xe, qua đời, gặp vấn đề nan giải...

Bước 4: Hãy suy nghĩ sẽ động viên an ủi cho bản thân như thế nào.

Suy nghĩ phát tâm từ bi đối với người khác là điều rất tốt. Chúng ta cũng cần thiền phát tâm từ bi, lòng trắc ẩn và động viên an ủi cho chính bản thân mình. Đây là điều cần thiết.