
TUẦN 42 - NGÀY 01/06/2025
CHỦ ĐỀ: TỊNH HÓA ÁC NGHIỆP NHỜ 4 NĂNG LỰC (tiếp theo)
(Geshe Lharampa Thabkhe Lodroe hướng dẫn)
Thầy và học viên cùng phát khởi động cơ thanh tịnh trước buổi học pháp. Bắt đầu tụng kệ Quy y Tam Bảo và Phát tâm bồ đề (3 lần). Chúng ta đang thực hành pháp Đại thừa, không những nghĩ đến lợi ích bản thân, mà còn nghĩ đến lợi lạc cho tất cả mọi chúng sanh. Khởi đầu với động cơ đúng đắn và kết thúc bằng hồi hướng thì việc học pháp mới trọn vẹn, thành tựu viên mãn.
Thầy giới thiệu tóm lược 4 học phần của sách Giải Thoát Trong Lòng Tay.
“Giáo lý đặc biệt: Thanh lọc bản thân nhờ bốn năng lực” nằm trong mục “Suy nghĩ về những điều này, hãy thay đổi cách hành xử”, “Phát triển lòng tin vào luật nhân quả”, Ngày thứ 13.
Phạm vi nhỏ nói đến mong muốn có được an lạc ở đời này và đời sau, muốn thoát khổ ở các cõi thấp và tái sanh lên các cõi lành, nhưng vẫn còn tiềm ẩn những nguy cơ chịu khổ ở cõi luân hồi. Do đó, cần hiểu về phát triển lòng tin vào luật nhân quả luôn vận hành chính xác, từ bỏ 10 bất thiện nghiệp. Học phần này đề cập đến Quy y Tam Bảo, Nghiệp và Nhân quả.
Đức Phật dạy rằng: Tất cả nghiệp mà chúng sinh tạo ra qua vô lượng kiếp sẽ không tự nhiên biến mất. Khi gieo nhân thiện lành sẽ nhận quả tốt, còn gieo nhân bất thiện sẽ nhận quả xấu.
Tất cả đau khổ bắt nguồn từ nghiệp bất thiện. Làm sao ta tịnh hóa được những ác nghiệp đó? Ở đây nói đến 4 năng lực tịnh hóa ác nghiệp.
1/ Năng lực “từ bỏ”
2/ Năng lực “áp dụng mọi thuốc chữa”
3/ Năng lực “chừa bỏ tà hạnh”
4/ Năng lực “căn bản”
Năng lực “từ bỏ” nghĩa là hối hận về những việc xấu đã làm. Chúng ta thường bị nghiệp phiền não chi phối nên tích lũy nhiều ác nghiệp. Do đó, ta cần nhận biết đã làm những việc xấu nào và hối hận về những lỗi lầm đã phạm phải.
Năng lực “áp dụng mọi thuốc chữa” nghĩa là muốn tịnh hóa những ác nghiệp, ta cần áp dụng các biện pháp đối trị bằng cách tạo thiện nghiệp.
Thầy trích dẫn Đại luận Lamrim: Năng lực thứ hai là “áp dụng mọi thuốc chữa” có 6 phần. Ví dụ về áp dụng các biện pháp đối trị bằng cách tạo thiện nghiệp: phát khởi niềm tin với đạo sư, tụng kinh, trì chú Kim Cang Tát Đỏa trăm âm, chú Quan Thế Âm, Phật A Di Đà, lễ lạy, cúng dường Tam Bảo, thiền tánh không, thiền vô ngã, tạc tượng, xây dựng bảo tháp, đi kinh hành quanh bảo tháp, thực hành Lamrim...
Năng lực “chừa bỏ tà hạnh” nghĩa là hối hận về những lỗi lầm đã phạm và quyết tâm hứa nguyện về sau không bao giờ tái phạm.
Năng lực “căn bản” nghĩa là muốn tịnh hóa các ác nghiệp, ta cần quy y Tam Bảo, thiền quán tâm bồ đề, tâm hoan hỷ và thiền quán về Đức Kim Cang Tát Đỏa.
Thầy lưu ý một số sách luận khác ghi năng lực “căn bản” là năng lực đầu tiên trong 4 năng lực. Việc đảo vị trí này không có ảnh hưởng gì.
Điểm quan trọng của việc tịnh hóa ác nghiệp là sau khi nhận biết mình đã làm các việc xấu, ta không nên bị ám ảnh sợ hãi về hành vi xấu đó mãi mà cần phải hối hận và quyết tâm hứa nguyện sẽ không bao giờ tái phạm. Ví dụ như ta thường uống bia rượu hay nói lời tổn thương, phản ứng sân giận với người khác. Nếu ta muốn dừng ngay thói quen đó thì rất khó, nhưng ta có thể thực hành giảm dần uống bia rượu, giảm dần sân giận khi bị người khác hãm hại, nói lời tổn thương. Ta phải nỗ lực giảm dần các thói quen xấu của mình.
Chúng ta không nên có suy nghĩ rằng sau khi đã làm việc xấu, ta cứ thực hành tịnh hóa ác nghiệp thì ác nghiệp sẽ biến mất và sau đó, lại tiếp tục thực hiện hành vi ác nghiệp. Chúng ta không nên tạo hành vi ác nghiệp. Bởi vì, khi ta làm việc xấu là đã tạo ra nhân chướng ngại trì hoãn việc thành tựu địa đạo của chính mình.
Chúng ta hãy xem lại sách Giải Thoát Trong Lòng Tay, Ngày thứ 4, phần nghi lễ chuẩn bị có 6 việc tại mục thứ 5 “Dâng lời cầu nguyện bảy phần và một mandala thế giới - những pháp hành chứa mọi điểm then chốt để tích lũy công đức và thanh lọc bản thân” và Ngày thứ 13: “Giáo lý đặc biệt: Thanh lọc bản thân nhờ 4 năng lực” ghi rõ phương pháp thanh lọc bản thân và tịnh hóa ác nghiệp.
Chúng ta rất may mắn có được thân người hiện tại thì nên tận dụng thân người quý báu này để thực hành pháp, tích lũy thiện nghiệp, từ bỏ ác nghiệp. Vì ta sẽ không biết ở kiếp sau có tái sanh vào cõi ác hay không, có cơ hội thực hành pháp và tích lũy thiện nghiệp hay không. Cho nên, để có được thân người hoàn mỹ thuận duyên thực hành pháp, nhận biết tốt xấu ở kiếp sau thì kiếp này ta biết quy y Tam Bảo, phát khởi tín tâm nơi Tam Bảo, luật nhân quả.
Thực hành thiền:
Thầy hướng dẫn thiền về hoan hỷ thiện hạnh.
Bước 1: Thư giãn thân tâm, tạm gác lại suy nghĩ và tập trung vào hơi thở, hít vào thở ra lần.
Bước 2: Thiền quán suy nghĩ tích cực về những việc làm lợi lạc cho người khác, phẩm hạnh tốt, thuận duyên thành công trong công việc, học tập của mình và người khác (thiền 1 phút).
Bước 3: Thiền quán những việc làm lợi lạc, giúp đỡ gia đình, cha mẹ, người thân, bạn bè (thiền 1 phút).
Bước 4: Thiền quán những lỗi lầm lớn, những việc xấu mình đã phạm và nghĩ rằng đã là con người sẽ luôn có lỗi lầm, không để tâm bị ám ảnh, buồn mãi về những tà hạnh đó. Ta phát tâm hối hận và hứa nguyện từ nay về sau sẽ không tái phạm và sẽ tịnh hóa được ác nghiệp đã phạm (thiền 1 phút).
Thầy trích dẫn bản luận “Bảo Hành Vương Chính Luận” do Ngài Long Thọ soạn tác: Bầu trời bị bao phủ những đám mây đen dày đặc giống như chúng ta đã tích lũy vô số ác nghiệp tham, sân, si. Khi ánh mặt trời chiếu sáng thì đám mây đen tan biến và bầu trời trở nên trong xanh giống như việc tịnh hóa ác nghiệp giúp ta thanh tịnh những lỗi lầm đã phạm.
Bước 5: Thiền quán tâm hối hận những ác nghiệp mình đã phạm và phát khởi tâm hoan hỷ những thiện hành đã làm. Hoan hỷ những việc làm thiện lành của gia đình, cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn bè và giảm dần nhìn thấy những lỗi lầm nơi họ (thiền 1 phút).
Bước 6: Thiền quán tâm hoan hỷ, không ganh tỵ, so sánh những thiện lành, hạnh phúc, thành công của người mình không quen biết và giảm dần nhìn thấy những lỗi lầm nơi họ, giảm dần tâm không vui, so sánh với họ (thiền 1 phút).
Bước 7: Thư giãn thân tâm. Hít vào hơi thở thật sâu và thở ra.
Phạm vi trung bình: Giống như phạm vi nhỏ, ta cũng mong muốn có được an lạc ở đời này và đời sau nhưng cho dù thoát khổ ở các cõi ác nhưng ở các cõi lành vẫn tiềm ẩn nguy cơ chịu khổ. Do đó, ở phạm vi trung bình, ta phát tâm thoát hết khỏi tất cả mọi đau khổ của luân hồi. Học phần này sẽ đề cập đến Tứ Thánh Đế và 12 Nhân duyên.
Thầy giới thiệu sơ lược về Tứ Thánh Đế.
1) Sự thật về khổ (Khổ Đế): là những gì ta cần phải biết về khổ.
2) Sự thật về nguồn gốc của khổ (Tập Đế): là nguyên nhân của khổ, là những gì ta cần phải loại bỏ.
3) Sự thật về việc chấm dứt khổ (Diệt Đế): là những gì ta phải chứng đắc.
4) Sự thật về phương pháp chấm dứt khổ (Đạo Đế): là những gì ta phải tu tập, phải thiền, phải thực hành.
Sự thật về khổ (sự thật đầu tiên) là những đau khổ sinh ra trong cõi luân hồi, người giàu, người nghèo đều có những nỗi khổ khác nhau.
Nguồn gốc của khổ (sự thật thứ 2) là những nghiệp đã làm và những phiền não (chủ yếu là tham, sân, si) đã thúc đẩy ta tạo ra những nghiệp đó.
Hai sự thật đầu liên quan đến cơ chế trong luân hồi, tức là vì nguyên nhân của khổ nên ta mới bị đau khổ.
Chính vì biết những đau khổ mà ta đang chịu là do nghiệp và phiền não nên bây giờ ta phải áp dụng phương pháp để thoát khỏi tất cả các phiền não đó. Thực hành phương pháp thoát khổ (sự thật thứ 4) sẽ cho kết quả là thoát được khổ.
Vậy làm sao để loại bỏ nghiệp xấu và phiền não? Thực hành Giới - Định - Tuệ, thiền quán tâm bồ đề, trí chứng tánh không sẽ cho kết quả là thoát được khổ. Khi thoát được khổ, ta sẽ có được an lạc. Ở trạng thái an lạc đó, ta sẽ không còn bị bất kỳ phiền não hay đau khổ của luân hồi quấy nhiễu nữa. Lúc đó ta đã được giải thoát, tức Niết bàn (sự thật thứ 3).