
TUẦN 87 – NGÀY 21/05/2025
CHỦ ĐỀ: BẢY ĐIỂM LUYỆN TÂM (tiếp theo)
(Geshe Lharampa Thabkhe Lodroe hướng dẫn)
Thầy và học viên cùng phát khởi động cơ thanh tịnh trước buổi học pháp, bắt đầu tụng bài kệ Quy y Tam Bảo và Phát tâm bồ đề (3 lần). Chúng ta đang thực hành giáo pháp Đại thừa, không chỉ nghĩ đến lợi ích bản thân, mà còn nghĩ đến lợi lạc cho tất cả mọi chúng sanh. Với động cơ đúng đắn và kết thúc buổi học bằng hồi hướng, việc học pháp sẽ được trọn vẹn, thành tựu viên mãn.
Thầy giới thiệu tóm lược 4 học phần của giáo trình Giải Thoát Trong Lòng Tay. Trong 4 học phần, Phạm vi nhỏ, Phạm vi trung bình, Phạm vi lớn là rất quan trọng. Trong Phạm vi lớn có những giai đoạn luyện tâm bồ đề gồm luyện tâm theo chỉ giáo bảy lớp nhân quả và luyện tâm bằng cách đổi địa vị mình với người. Luyện tâm bằng cách đổi địa vị mình với người có chánh văn Bảy Điểm Luyện Tâm.
Chánh văn Bảy Điểm Luyện Tâm gồm có bảy điểm như sau:
Điểm thứ nhất: Pháp hành sơ khởi.
+ Nghĩ về thân người khó được.
+ Nghĩ về chết và vô thường.
+ Nghĩ về những nhược điểm của luân hồi.
Điểm thứ hai: Pháp hành chính yếu: Luyện tâm bồ đề.
Điểm thứ ba: Chuyển nghịch cảnh thành đường tu giác ngộ.
Điểm thứ tư: Một pháp thực hành suốt đời. Chủ yếu về phương pháp thực hành luyện tâm như thế nào? Và năm lực gồm: năng lực hạt giống trắng, năng lực của tập quán, năng lực quyết định, năng lực của sự từ bỏ, năng lực của cầu nguyện.
Điểm thứ năm: Chuẩn mực tâm đã luyện.
Điểm thứ sáu: Lời nguyện luyện tâm.
Điểm thứ bảy: Lời khuyên luyện tâm (tiếp theo)
“Lời nguyện luyện tâm” và “Lời khuyên luyện tâm” có vài điểm giống nhau nhưng “Lời khuyên luyện tâm” bắt đầu là phát khởi động cơ thanh tịnh và kết thúc là cầu nguyện hồi hướng.
Lời khuyên thứ 10: Luyện thanh tịnh, không thiên lệch đối tượng.
- Lời khuyên thứ 10 chỉ dạy chúng ta khi thực hành pháp luyện tâm thì không chỉ thực hành nhẫn nhục đối với những người mà ta ưa thích (cha mẹ, người thân, bạn thân) mà cả đối với kẻ thù, người mà ta không thích.
- Không thiên lệch đối tượng là không phân biệt chủng tộc, dân tộc, dòng tộc, xuất thân, địa vị, con vua hay con của người ăn xin, nam hay nữ, người thân hay kẻ thù, đối tượng chúng sanh và không là chúng sanh. Lời khuyên thứ 10 nói rằng tất cả đều là đối tượng để thực hành luyện tâm, không tách rời thiên lệch giữa người thân và kẻ thù. Nếu thực hành luyện tâm nhẫn nhục hay bố thí, tâm bi... mà chỉ hướng đến người thân, mà không hướng đến kẻ thù thì đó là thiên lệch đối tượng.
- Xã hội Ấn Độ phân chia thành 4 đẳng cấp chính. Tầng lớp cao nhất là Bà La Môn gồm tăng lữ và quý tộc. Đức Phật nói rằng tu sĩ cần xem thực hành pháp là chính yếu, không xem chủng tộc, dòng tộc là điều chính yếu. Ngài nói rằng cả nam và nữ đều có thể đạt quả vị Phật, không có tâm phân biệt đối tượng thực hành pháp nhưng giới luật của người nam và người nữ thì khác nhau.
- Lời khuyên này có ý nghĩa là chúng ta phải thiền quán về thực hành luyện tâm với những đối tượng trước đây do tâm phân biệt mà chúng ta đã tách họ ra khỏi phạm vi luyện tâm của mình. Bây giờ, chúng ta không nên thiên lệch mà luôn thiền quán pháp luyện tâm đó trên tất cả các đối tượng bình đẳng như nhau.
Lời khuyên thứ 11: Luyện sâu rộng, xem trọng tất cả.
- Thực hành luyện tâm đối với chúng sinh không chỉ là lời nói suông mà ta cần thực hành từ sâu thẳm trong tâm. Nếu chỉ nói suông mà không có thực hành luyện tâm từ bi là luyện tâm chưa đúng.
Lời khuyên thứ 12: Luôn thiền đến những điều bỏ mặc.
- Khi thực hành thiền quán luyện tâm từ bi, tâm xả đối với tất cả mọi chúng sinh, ta cần xa lìa tham sân. Trong cuộc sống, chúng ta thường phớt lờ hoặc bỏ mặc những đối tượng mình ghét, bạn xấu, hàng xóm xấu và trong tâm thường nảy sinh vọng tưởng có ai hãm hại mình. Do đó, chúng ta thường gặp khó khăn trong việc thiền quán luyện tâm nhẫn nhục, phát khởi tâm từ bi đối với đối tượng không ưa thích. Từ nay, chúng ta cần kiên trì cố gắng thực hành luyện tâm từ bi, nhẫn nhục. Hãy đưa những điều đó vào thiền quán. Hãy thường nghĩ đến những người mình không ưa thích, những người gặp khó khăn hơn mình.
Lời khuyên thứ 13: Đừng nên lệ thuộc vào hoàn cảnh.
- Trước khi lên kế hoạch đi chơi dã ngoại hay đi dạo, chúng ta thường xem dự báo thời tiết xấu hay tốt, có vướng bận công việc hay không mới ra quyết định đi chơi hay không. Chúng ta hay bị lệ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài, niềm vui, nỗi buồn, thời gian thuận lợi hay không thuận lợi, sức khỏe tốt hay xấu… Ví dụ, khi sức khỏe tốt, ta mới thực hành pháp, còn khi sức khỏe không tốt, ta lại không thực hành pháp. Đó là điều không nên.
- Thầy trích dẫn tác phẩm Lễ Cúng Dường Đạo Sư: “Tóm lại, bất kể những gì xảy ra bên ngoài, dù xấu hay tốt”. Ý nghĩa của lời khuyên luyện tâm này là cho dù bên ngoài hoàn cảnh là thuận lợi hay khó khăn, thời gian thuận lợi hay không thuận lợi, sức khỏe tốt hay xấu, tài sản có hay không thì chúng ta đừng để hoàn cảnh đó tác động lên tâm mình, hãy luôn kiên trì thực hành luyện tâm, giữ tâm luôn an lạc.
Lời khuyên thứ 14: Từ nay hãy thực hành pháp chính.
- Tác phẩm Giải Thoát Trong Lòng Tay, Ngày thứ chín, phần “Kích thích để rút tỉa tinh hoa từ kiếp người” đề cập tới việc nhận ra sự may mắn được làm người. Chúng ta rất may mắn có được thân người hiện tại, gặp được giáo pháp và có khả năng thực hành thành tựu giáo pháp Đại thừa, thành tựu thực hành pháp luyện tâm Đại thừa ngay trong kiếp này, vì không chắc chắn ở kiếp sau chúng ta sẽ có được thân người quý báu để có thể thực hành giáo pháp. Cho nên, chúng ta cần phải khởi sinh trong tâm một sự xác quyết thực hành luyện tâm ngay từ bây giờ.
Lời khuyên thứ 15: Đừng nên hiểu lệch lạc sai lầm.
- Trong cuộc sống, đôi lúc chúng ta có nhiều hiểu biết lệch lạc.
- Có 6 loại hiểu lệch lạc:
Thứ nhất: Nhẫn nhục lệch lạc ( Nhẫn nhục sai).
+ Chúng ta gặp khó khăn thực hành giáo pháp nhưng vẫn kiên trì thực hành pháp thì không phải là nhẫn nhục lệch lạc.
+ Nhẫn nhục lệch lạc có thể hiểu là cố gắng chịu đựng giải quyết những vấn đề gặp phải khi làm những ác nghiệp như giết hại, săn bắn, lừa gạt hay kinh doanh, nhưng lại không có khả năng kiên trì đối trị với những khó khăn trong thực hành giáo pháp.
Thứ hai: Mong cầu lệch lạc (Ước nguyện sai lầm).
+ Có thể hiểu là không mong cầu thực hành thành tựu pháp, giải thoát đạt được quả vị Phật cho bản thân và người khác mà chỉ mong cầu có được hạnh phúc, sức khỏe, địa vị, tích lũy nhiều tài sản trong cuộc sống.
Thứ ba: Trải nghiệm lệch lạc (Hiểu sai mùi vị).
+ Trải nghiệm lệch lạc là không thích trải nghiệm thực hành pháp nhờ lắng nghe, quán tưởng, thiền định mà thích trải nghiệm những thú vui thế tục như uống bia, rượu, tham dự buổi tiệc, thưởng thức món ăn ngon, tài sản…
Thứ tư: Đừng có từ bi lệch lạc (Hiểu sai tâm từ bi).
+ Phát khởi tâm từ bi đối với những hành giả gặp khó khăn trong thực hành pháp là một dạng phát tâm từ bi lệch lạc. Ví dụ như phát khởi tâm từ bi đối với hành giả có thân thể ốm yếu vì lễ lạy, thiền định. Vị hành giả này mặc cho bản thân đang bệnh tật, ốm yếu nhưng vẫn can đảm, kiên trì cố gắng thực hành pháp với mục đích thanh tịnh ác nghiệp để có kết quả thiện hạnh cho đời sau. Từ bi lệch lạc là phát khởi tâm từ bi không chính đáng, như không phát khởi tâm từ bi đúng đắn đối với những đối tượng thật sự khó khăn, cần giúp đỡ.
+ Ngài Jetsun Milarepa thiền định tại hang động “Nha Nam”, lúc ấy có nhóm phụ nữ thấy ngài có thân thể ốm yếu, xanh xao, nghèo khổ, liền phát khởi tâm từ bi đối với Ngài. Đây là phát khởi tâm từ bi lệch lạc. Cũng ngay lúc đó, Ngài phát khởi tâm từ bi đối với nhóm phụ nữ này: “Ôi, những con người này đang thật sự không hiểu những đau khổ sinh tử trong luân hồi”. Đây chính là phát khởi tâm từ bi chân thật.
+ Phát khởi tâm từ bi chính đáng cần dựa trên một động cơ đúng đắn. Đó là bởi vì ta thương xót cho những người ở trong hoàn cảnh khó khăn, đang phải chịu khổ, từ đó ta phát tâm từ bi đối với họ và mong muốn giúp đỡ họ.
Thứ năm: Đừng có quan tâm lệch lạc (Khuyến cáo sai lầm).
+ Nghĩa là không hướng dẫn người khác thực hành pháp và bản thân cũng không thích thực hành pháp mà thích làm những việc bất thiện và hướng dẫn lệch lạc người khác làm điều bất thiện, những việc làm thế tục.
Thứ sáu: Đừng có tùy hỷ lệch lạc (Hỷ lạc sai lầm).
+ Nghĩa là thường thiền quán tùy hỷ đối với những đối tượng ưa thích khi họ có niềm vui đạt thành tựu, nhưng lại không thiền quán tùy hỷ đối với kẻ thù, người mà mình không thích khi họ đạt thành tựu, hạnh phúc và cảm thấy thoải mái khi họ gặp biến cố, nghịch duyên, bệnh tật… Đó là tùy hỷ lệch lạc.
Lời khuyên thứ 16: Đừng làm điều rời rạc.
- Chúng ta thường thực hành pháp hay làm việc tùy hứng và không duy trì được tính liên tục. Như vậy, sự thực hành sẽ không có hiệu quả. Chúng ta cần nỗ lực luyện tâm khi thực hành pháp, nên duy trì tính liên tục, không để bị gián đoạn.
Lời khuyên thứ 17: Hãy cố gắng chuyên nhất luyện tâm.
- Nghĩa là thiền quán tập trung chuyên nhất khi thực hành pháp luyện tâm. Đừng để tâm tán loạn trỗi dậy thì ta sẽ không thể tập trung. Và khi không có đủ niềm tin thì ta sẽ không có được kết quả.
Lời khuyên thứ 18: Giải thoát bằng nhận thức, suy xét.
- Khi ở một mình, chúng ta cảm thấy thoải mái thực hành pháp nhưng cần phải cẩn thận chú ý nhận thức và phân tích hành vi, tư tưởng xem ta có đang nổi giận, đố kỵ, ngã mạn với người khác hay không và có áp dụng lập tức phương pháp đối trị với chúng hay không.
Lời khuyên thứ 19: Đừng khoe khoang.
- Nghĩa là chúng ta làm điều tốt giúp đỡ người khác thì hãy giữ điều đó cho bản thân mình, không cần phải kể công việc ta đã làm cho ai khác biết để nhận lời tán dương, khen ngợi. Hành động này cho thấy làm điều tốt chỉ để khoe khoang, thích sự khen ngợi của người khác, chứ không phải thực sự mong muốn làm điều tốt.
Lời khuyên thứ 20: Đừng tự chuốc bực tức vào mình.
- Khi bị người khác hãm hại, gây tổn thương, ta ngay lập tức phản ứng bằng cách nổi sân với người đó, nhưng là một người đang thực hành luyện tâm, ta cần biết kiểm soát bản thân, đừng để cơn giận tác động đến cách ứng xử của mình.
Lời khuyên thứ 21: Đừng tu theo từng cơn.
- Nghĩa là không nên thực hành pháp trong thời gian ngắn hay vì tác động của hoàn cảnh khiến ta gián đoạn và từ bỏ pháp. Chúng ta nên thiền quán thực hành luyện tâm liên tục kéo dài, không gián đoạn.
Lời khuyên thứ 22: Đừng mong được cảm ơn.
- Chúng ta thực hành pháp, giảng pháp hay làm những điều tốt, sau đó cho người khác biết rằng mình đã thực hành pháp, đã làm được điều tốt, hoặc làm một vài việc nhỏ rồi loan tin rằng mình đã làm được việc lớn, từ chuyện giả dối thành chuyện đúng đắn để mong cầu người khác khen ngợi, kính trọng hay cảm ơn mình rồi nhận lấy đền đáp bằng quà tặng, tài sản… Chúng ta không nên có hành vi như vậy.
Đặc trưng của Bảy Điểm Luyện Tâm.
“Thời đại này ngũ trược gia tăng
Hãy chuyển hóa thành đường giác ngộ.”
Khi thực hành pháp luyện tâm, chúng ta đôi lúc cần chọn nơi chốn thích hợp, thời gian thuận lợi, đạo hữu tốt. Nhưng trong thời đại ngày nay, chúng ta gặp nhiều đối tượng sân giận, xấu tính, suy nghĩ lệch lạc, gặp hoàn cảnh nghịch duyên, bệnh tật, tuổi thọ ngắn, hay gặp những người thích tích lũy tài sản nhưng không mong cầu thực hành giáo pháp. Chúng ta hãy tận dụng cơ hội, thời gian đặc biệt này để thực hành luyện tâm chuyển hóa nghịch cảnh thành đường tu giác ngộ.
Nguồn gốc của Bảy Điểm Luyện Tâm.
“Giáo huấn tinh túy cam lồ này
Từ truyền thừa của Ngài Serling.
Nên trong tôi tín tâm nhiều hơn
Mặc cho những gian khó gièm pha
Thỉnh lời dạy phá tan chấp ngã
Giờ đây chết cũng không ân hận”.
Chánh văn Bảy Điểm Luyện Tâm có nguồn gốc từ dòng truyền thừa luyện tâm của Tổ Atisha. Giáo huấn luyện tâm thâm sâu của Tổ Atisha là học từ đạo sư - Ngài Serling. Ngài Serling đi thuyền từ Indonesia đến Ấn Độ trao truyền pháp thiền quán luyện tâm. Tác giả của chánh văn Bảy Điểm Luyện Tâm là Ngài Chekawa, Ngài đã tích lũy vô lượng công đức từ nhiều kiếp trước nên đã thực hành thành tựu pháp luyện tâm.
Pháp thiền quán luyện tâm chính là giáo pháp tinh túy cam lồ, được xem là phương pháp tốt nhất giúp kiểm soát được tâm chấp ngã, những lỗi lầm của tâm ái ngã và nghĩ đến lợi lạc của tâm lợi tha.