Tóm tắt bài giảng -
Ngày 14 - Nghĩ về nỗi khổ trong sinh tử
Thầy và học viên cùng phát khởi động cơ thanh tịnh trước buổi học pháp. Bắt đầu tụng kệ Quy y Tam Bảo và Phát tâm Bồ Đề (3 lần). Chúng ta đang thực hành pháp Đại thừa, không những nghĩ lợi ích bản thân, hãy nghĩ đến lợi lạc tất cả chúng sanh. Với động cơ bắt đầu đúng đắn và kết thúc hồi hướng thì việc học pháp trọn vẹn thành tựu viên mãn.
Giới thiệu tóm lược 4 học phần của sách Giải Thoát Trong Lòng Tay.
Trong 4 học phần thì Phạm vi nhỏ, Phạm vi trung bình, Phạm vi lớn là quan trọng.
Phạm vi nhỏ nói đến mong muốn có được an lạc ở đời này và đời sau, muốn thoát khổ ở 3 cõi thấp, tái sanh lên 3 cõi tốt là cõi người, cõi phi thiên và cõi thiên, nhưng vẫn còn tiềm ẩn những nguy cơ chịu khổ ở cõi luân hồi. Do đó, cần hiểu về Quy Y Tam Bảo và cách tịnh hoá ác nghiệp.
Hôm nay, Thầy sẽ hướng dẫn Phạm Vi Trung Bình.
Tương tự Phạm vi nhỏ thì Phạm vi trung bình cũng nói về những nỗi khổ về cõi người, cõi phi thiên, cõi thiên, và tâm mong cầu thoát khổ đau trong sáu cõi luân hồi. Do đó, Phạm vi trung bình đề cập chủ yếu đến tâm mong muốn thoát hết khổ trong cõi luân hồi có liên quan đến bài thuyết pháp đầu tiên tại Varanasi, Đức Phật Thích Ca đã giảng dạy Tứ Diệu Đế cho 5 vị đệ tử Kiều Trần Như.
Thầy sẽ hướng dẫn ý nghĩa hình vẽ Bánh Xe Luân Hồi mô tả về Tứ Diệu Đế (Tứ Thánh Đế), 12 nhân duyên có liên quan đến Phạm Vi Trung Bình.
Tứ Thánh Đế là nội dung thực hành cốt lõi của Phạm Vi Trung Bình.
Tứ Thánh Đế là Bốn Sự Thật Cao Quý.
1) Sự Thật về khổ (Khổ Đế): là những gì ta cần phải biết về khổ.
2) Sự Thật về nguồn gốc của khổ (Tập Đế): là nguyên nhân của khổ, là những gì ta cần phải loại bỏ.
3) Sự thật về việc chấm dứt khổ (Diệt Đế): là những gì ta phải chứng đắc.
4) Sự thật về phương pháp chấm dứt khổ (Đạo Đế): là những gì ta phải tu tập, phải thiền, phải thực hành.
Sự thật về khổ (sự thật đầu tiên) là những đau khổ mà hiện giờ ta phải gánh chịu. Nguồn gốc của khổ (sự thật thứ 2) là những nghiệp đã làm và những phiền não (chủ yếu là tham, sân, si) đã thúc đẩy ta tạo ra những nghiệp đó. Đây là 2 nguyên nhân chính yếu gây ra khổ trong luân hồi. Chính vì biết những đau khổ mà ta đang chịu là do nghiệp và phiền não nên bây giờ ta phải áp dụng phương pháp để thoát khỏi tất cả các phiền não đó. Thực hành phương pháp thoát khổ (sự thật thứ 4) sẽ cho kết quả là thoát được khổ. Khi thoát được khổ, ta sẽ có được an lạc. Ở trạng thái an lạc đó, ta sẽ không còn bị bất kỳ phiền não hay đau khổ của luân hồi quấy nhiễu nữa. Lúc đó ta đã được giải thoát, tức Niết bàn (sự thật thứ 3).
2 sự thật đầu liên quan đến cơ chế trong luân hồi, tức là vì nguyên nhân của khổ nên ta mới bị đau khổ. 2 sự thật sau nói đến cơ chế của giải thoát, nghĩa là nếu thực hành phương pháp giải thoát thì ta sẽ được giải thoát. Cơ chế trong luân hồi là từ nghiệp và phiền não sẽ sinh ra những đau khổ trong luân hồi. Nếu muốn thoát hết khổ, cần phải phá bỏ nguồn gốc của khổ. Vậy làm sao để loại bỏ nghiệp xấu và phiền não? Phương pháp mà đức Phật đã dạy là thực hành Bát chánh đạo và Giới - Định - Tuệ… sẽ giúp loại bỏ được những nghiệp xấu và tất cả các phiền não. Khi mất hết tất cả các nguyên nhân tạo ra khổ thì sẽ không thể nào sinh ra kết quả đau khổ. Lúc đó ta đạt được giải thoát.
- Phạm vi trung bình là mong muốn thoát khỏi hết tất cả đau khổ của luân hồi, đạt được giải thoát. Muốn vậy, ta cần phải hiểu và thực hành được 4 sự thật này. Nếu không có thực hành Tứ Thánh Đế thì sẽ không có cách nào thát khỏi đau khổ của luân hồi.
* GIẢI THÍCH HÌNH VẼ BÁNH XE LUÂN HỒI VỀ TỨ THÁNH ĐẾ
Giới thiệu tóm lược nguồn gốc HÌNH VẼ BÁNH XE LUÂN HỒI.
Vua Tần- Bà- Sa-La thỉnh ý Đức Phật Thích Ca nên tặng món quà giá trị nào thể hiện lòng biết ơn Vua U-Tra-Ya-Na, vì vua Tần- Bà-Sa-La đã nhận món quà giá trị từ vua U-Tra-Ya-Na. Đức Phật đã giảng dạy hướng dẫn vua Tần- Bà-Sa-La về nội dung ý nghĩa Bánh Xe Luân Hồi. Vua Tần- Bà-Sa-La đã vẽ và ghi chú nội dung ý nghĩa Bánh Xe Luân Hồi, tặng món quà này đến vua U-Tra-Ya-Na. Từ đó, Đức vua U-Tra-Ya-Na đã thực hành pháp chứng quả A-La-Hán.
+ Ở tâm điểm của bánh xe có 3 con vật là con heo, con rắn và con chim, tượng trưng cho 3 loại phiền não chủ yếu là tham, sân, si. Con heo tượng trưng cho si. Rắn tượng trưng cho sân. Chim tượng trưng cho tham. Con heo đang ngậm đuôi 2 con vật kia nghĩa là vì si mê, vì không hiểu biết nên mới tham và sân. Ba điều này là tam độc trong tâm của chúng ta. Đau khổ có 2 nguồn gốc là nghiệp và phiền não. Từ phiền não này sinh ra tất cả mọi đau khổ trong luân hồi. Đó là sự thật thứ 2 (Tập Đế).
+ Tiếp đến là vành ngoài một bậc ở bên trái, nửa vành bên trái có màu trắng tượng trưng cho thiện nghiệp; nửa vành bên phải có màu đen tượng trưng cho ác nghiệp. Vì tham, sân, si mà ta tạo ra ác nghiệp (nửa vành đen bên phải). Có những lúc ta tạo ra thiện nghiệp (nửa vành trắng bên trái). Nhờ thiện nghiệp giúp sinh lên 3 cõi lành: trời, người, phi thiên. Còn làm ác nghiệp thì sinh vào 3 cõi ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. 6 cõi luân hồi tượng trưng cho đau khổ của luân hồi. Đó là sự thật đầu tiên (Khổ Đế).
+ Vành ngoài nữa có 12 ô nhỏ, tượng trưng cho 12 chi phần của nhân duyên là Vô minh - Hành - Thức - Danh sắc - Lục nhập - Xúc - Thọ - Á - Thủ - Hữu - Sinh - Lão tử.
+ Hình vẽ bánh xe luân hồi có nói đến các pháp thực hành của phạm vi nhỏ. Nghĩa là quy y và nương tựa Tam Bảo, sau đó thực hành tịnh hóa ác nghiệp và làm thiện nghiệp để được sinh lên 3 cõi lành. Nếu làm ác thì sẽ phải sinh vào 3 cõi ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Chúng sinh ở cõi địa ngục chịu khổ nóng lạnh, súc sanh chịu nỗi khổ ngu si, cõi ngạ quỹ chịu khổ đói khát. Ở các cõi ác này, đau khổ nhiều như thế nên cơ hội có được một chút nhàn rỗi để thực hành pháp dường như không có. Cho nên để tránh được những đau khổ đó, ta phải thực hành tịnh hóa ác nghiệp và làm thiện nghiệp để được sinh lên cõi lành. Nhưng cho dù thoát khỏi 3 cõi ác và sinh lên cõi trời, người, hay phi thiên thì ta vẫn nằm trong luân hồi, vẫn chịu sự trói buộc của sinh tử.
+ Ngoài cùng có một con quỷ ngậm nguyên bánh xe luân hồi, tượng trưng cho thần chết. Nghĩa là nếu vẫn ở trong luân hồi thì dù sinh lên cõi nào đi chăng nữa, có hưởng an lạc, hạnh phúc như thế nào đi chăng nữa thì ta vẫn ở trong miệng của thần chết, lúc nào cũng chịu trói buộc của sinh tử luân hồi. Đó là sự thật đầu tiên trong Tứ Thánh Đế.
+ Để thoát ra khỏi luân hồi, đức Phật đã hướng dẫn 2 sự thật phía sau, nghĩa là cần thực hành Bát chánh đạo và Giới - Định - Tuệ mới có được giải thoát. Trong hình vẽ bánh xe, ta thấy có một vị tu sĩ đứng trên đám mây ở góc trên bên phải, đang chỉ tay về phía mặt trăng. Vị này đứng ở ngoài bánh xe, nghĩa là đứng ngoài thần chết, tức vị đó đã thoát khỏi sinh tử luân hồi. Vị tu sĩ chỉ tay về phía mặt trăng, nghĩa là chỉ cho ta con đường đi đến Niết bàn, tức là ta có thể làm theo hướng dẫn của vị đã thoát khỏi luân hồi sinh tử để có được giải thoát. Vị tu sĩ đang chỉ tay tượng trưng cho sự thật thứ tư - con đường phương pháp chấm dứt khổ (Đạo Đế).
+ Trong hình vẽ bánh xe, mặt trăng và mặt trời tượng trưng cho giải thoát, Niết bàn hay sự chấm dứt khổ. Đó là sự thật thứ 3 (Diệt Đế).
+ Phía trên bên trái có cung điện của vị Phật và ở phía dưới có dải hào quang đi từ tâm điểm của bánh xe lên cung điện của Phật giống như bậc thang và có vài người đi trên bậc thang đó. Nghĩa là nếu ta phát tâm nhờ Tín - Nguyện - Hạnh và hướng tâm về đức Phật A Di Đà, nếu có đủ công đức và niềm tin, thì sau khi chết, ta cũng có thể vãng sanh lên cõi tịnh độ của Phật A Di Đà. Đó cũng là một cách có thể thoát khỏi luân hồi.
Kết thúc buổi học: Hồi hướng.