Lamrim 2023
TUẦN 115 – NGÀY 10/12/2025
CHỦ ĐỀ: TRÍ TUỆ BA LA MẬT (tiếp theo)
(Geshe Lharampa Thabkhe Lodroe hướng dẫn)
Thầy và học viên cùng phát khởi động cơ thanh tịnh trước buổi học pháp. Bắt đầu tụng kệ Quy y Tam Bảo và phát tâm bồ đề (3 lần). Thầy sẽ ôn tập về trí tuệ ba la mật.
Quy y Tam Bảo là quy y Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Phật Bảo được hiểu như thế nào? Làm thế nào chứng đắc Phật quả? Tác phẩm Nhập Bồ Tát Hạnh của đại sư Tịch Thiên ghi rằng:
Bao điều Phật dạy kể trên
Cốt làm trí tuệ phát sinh nơi lòng
Muốn ra khỏi biển trầm luân
Cần sinh tuệ giác tinh không sáng ngời.
Đức Phật giảng về 6 ba la mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Chúng ta cần áp dụng phân tích sâu sắc trí tuệ. Để hiểu được phương pháp chứng đắc Phật quả thì phải hiểu về Pháp Bảo, phân tích tìm hiểu thiền quán sâu sắc diệt đế, đạo đế và Tăng Bảo. Khi vận dụng thiền quán trí tuệ sẽ giúp hiểu được cách thực hữu tồn tại, sự thật là như thế nào.
Bước 1: Tất cả các hành đều vô thường
Để hiểu được các pháp trên, trước tiên cần hiểu Đức Phật đã dạy thiền quán các hành vô thường, nói về chúng sinh cõi thế gian luôn vận hành thay đổi theo tự nhiên giống như thay đổi theo mùa xuân, hạ, thu, đông. Tâm ý bên trong cũng thay đổi liên tục từ tốt thành xấu và từ xấu thành tốt.
Sau khi hiểu về các hành vô thường, tư duy phát triển phân tích đối tượng chấp thật của 5 giác quan cái gì cần bác bỏ và vận dụng tư duy lập luận phân tích thì chúng ta sẽ có thể hiểu được toàn bộ những khả tính, ngã và uẩn không phải là một, ngã và uẩn không thực sự là khác.
Ví dụ, ta có thể hiểu rằng không biết ngày mai sẽ như thế nào. Nhưng cách trụ bản tánh thì không có chắc chắn tôi sẽ không thực hiện kế hoạch ngày mai hay tôi không biết ngày mai. Ta nghĩ rằng ngày mai sẽ đi làm hay lên kế hoạch làm điều này điều kia nhưng không đảm bảo chắc chắn ngày mai sẽ thực hiện theo đúng kế hoạch đã chuẩn bị. Cho nên, cách trình hiện và cách trụ bản tánh không trùng hợp với nhau.
Bước 2: Tất cả các pháp đều vô ngã
Khi ta không hiểu về vô ngã thì tâm thức phát sinh chấp ngã. Từ chấp ngã sẽ phát sinh bám chấp, sân giận, vô minh, lúc đó tâm thức chấp vào có cái tôi vững chắc. Ta tiếp tục đi phân tích tìm kiếm cái tôi nhưng không tìm thấy nó ở đâu. Đó chính là vô ngã.
Bước 3: Tất cả các pháp đều là tâm tự tánh
Theo Duy Thức Tông, nhà, núi… là những đối tượng trình hiện quy ước bên ngoài, không có trình hiện tương tự độc lập.
Ví dụ, khi ta thấy một người giúp đỡ người khác thì mặc định đó là người tốt. Khi ta thấy một người hại người khác thì mặc định đó là người xấu. Vì vậy, việc mặc định người tốt hay xấu là do tâm tạo nên. Khi tâm nằm mơ thấy đang uống nước, đi chợ hay nổi sân giận, thấy hàng rào, gặp bạn tốt xấu, người quý mến, người ghét… Khi tâm không tỉnh thức thì vẫn còn chấp trụ vào bản tánh cho là thật. Tâm tỉnh thức có phân tích lập luận cho là giấc mơ không thật, chỉ do tập khí hiển hiện tâm thức sai lệch.
Để hiểu được quan điểm tánh không, cần thiền quán theo từng giai đoạn rằng tất cả các hành đều vô thường, tất cả các pháp đều vô ngã, tất cả các pháp đều là tâm tự tánh. Tiếp đến vận dụng lập luận phân tích tìm kiếm các pháp nhưng không thấy nơi nào thì sẽ có khả năng hiểu được quan điểm tánh không.
Ví dụ, ta thực hành thiền quán phân tích cái bình, đi tìm cái bình nằm ở đâu hay chỗ nào ở các bộ phận và có tìm ra được nó nằm nơi nào hay không. Cho nên, muốn hiểu được quan điểm tánh không, ta cần có tư duy thiền quán trí tuệ sâu sắc, nếu chỉ nói miệng hời hợt sẽ không bao giờ hiểu được tánh không.
Trích Tinh Túy Bát Nhã: “Để đi qua bờ trí tuệ phải có tư duy trí tuệ, không nói hời hợt. Không sanh, không diệt, hư không của bản tánh”.
Trong Bát Nhã Tâm Kinh, có câu “sắc tức là không, không tức là sắc, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc”. Phần đó giải thích rằng lúc nhập định, ta hiểu sắc tức là không, vì lúc đó ta nhập định và chứng được tánh không của sắc nên lúc đó sắc tức là không. Sau khi xuất định, ta thấy rằng tánh không cũng chính là sắc. Sắc lúc này là ta không còn nghĩ đến một đặc tính cố hữu của sắc để xác định pháp đó là sắc mà thấy rằng bản chất của sắc cũng chính là không.
Tương tự, “tôi tức là không, không tức là tôi”. “Tôi tức là không” nghĩa là đi tìm kiếm cái tôi và sẽ không tìm thấy cái tôi nằm ở nơi nào. Nếu không tìm thấy cái tôi nằm ở nơi nào thì tiếp tục lập luận rằng không phải là không có cái tôi, nghĩa là “không tức là tôi”.
Cho nên, chúng ta cần phải huân tập thiền quán trí tuệ tánh không, phân tích tìm hiểu lập luận từng chữ trong kinh sách thì mới có khả năng hiểu một chút về tánh không. Nếu chỉ nói hời hợt, đọc tụng lướt qua hay chỉ phân tích 2 chữ “tánh” và “không” thì sẽ không bao giờ hiểu về tánh không.
Lắng nghe những pháp liên quan đến tánh không và phân tích tìm hiểu lập luận về tánh không kết hợp thực hành thiền quán trí tuệ tánh không. Khi ta nghe và tụng từng câu chữ liên quan đến tánh không sẽ tích lũy vô lượng công đức.
Chúng ta thường tụng kệ hồi hướng:
“Nguyện cho bồ đề tâm tối thượng
Nơi nào chưa phát triển thì sẽ sinh khởi
Nơi nào đã phát triển sẽ tăng trưởng không ngừng
Không bao giờ thoái chuyển”.
Chúng ta hãy thay thế “Nguyện cho bồ đề tâm tối thượng” thành “Nguyện cho tri kiến tánh không tối thượng”.
Nguyện cho tri kiến tánh không tối thượng
Nơi nào chưa phát triển thì sẽ sinh khởi
Nơi nào đã phát triển sẽ tăng trưởng không ngừng
Không bao giờ thoái chuyển”.
Sau khi chứng đắc tánh không sẽ đoạn diệt chấp thật, từ đó sẽ hiểu rõ đoạn diệt chấp thật Phật quả. Chúng ta sẽ phát tâm sâu sắc và mãnh liệt quy y chân thật Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo, từ đó sẽ tích lũy vô lượng công đức.