Lamrim 2023
TUẦN 114 – NGÀY 03/12/2025
CHỦ ĐỀ: TRÍ TUỆ BA LA MẬT (tiếp theo)
(Tôn sư Khangser Rinpoche hướng dẫn)
Thầy hỏi chúng ta đã học thuộc lòng 4 điểm then chốt khi thiền định về tánh không chưa? Nếu đã học thuộc lòng 4 điểm then chốt này, chúng ta đã nắm được 50% bản đồ thực hành về tánh không, 50% còn lại được viết trong sách Giải Thoát Trong Lòng Tay.
Nếu đọc xong sách Giải Thoát Trong Lòng Tay mà vẫn không hiểu được tánh không, hãy tụng chú Đức Phật Văn Thù. Nếu tụng chú Đức Phật Văn Thù mà vẫn không hiểu được nữa thì tụng một ngàn lần, một triệu lần. Nếu cứ làm theo những gì Thầy vừa nói, đó là lỗi lầm lớn nhất mà chúng ta có thể mắc phải. Bởi vì hiện tại những người đã và đang tụng chú Phật Văn Thù vẫn không hiểu được tánh không và trong tương lai, những người khác có tụng chú Phật Văn Thù nhiều cách mấy cũng sẽ không hiểu được tánh không nếu chỉ dựa vào mỗi việc tụng chú. Người ta tin vào năng lực của thần chú để đạt được sự chứng ngộ vì thực hành những điều đó quá dễ dàng. Nó trở thành cái bẫy đối với những người chuộng đường đi dễ.
Nhiều vị thầy đã truyền bá phương pháp thực hành rất sai lầm. Sai lầm thứ nhất là khuyến khích người tu chỉ tụng thần chú. Sai lầm thứ hai là vị thầy cứ bảo các đệ tử hãy thiền định nhưng lại không hướng dẫn phương pháp đúng cũng như sự hiểu biết đúng. Để thực hành thiền có hiệu quả, trước hết phải học giáo lý, phải hiểu rõ toàn bộ cấu trúc của đường tu.
4 điểm then chốt khi thiền định về tánh không:
1/ Xác định cái gì cần bác bỏ
2/ Xác định toàn bộ những khả tính
3/ Xác định ngã và uẩn không phải là một
4/ Xác định ngã và uẩn không thực sự là khác
- Điểm then chốt thứ nhất là xác định cái gì cần bác bỏ:
Chúng ta phải đi sâu hơn khi tìm kiếm cái ngã. Khi nghĩ đến cái ngã, ta cần phải nhận ra mình đang nắm bắt cái ngã đó như thế nào. Thầy lấy ví dụ, khi có một người nói mình là kẻ nói dối, lúc đó ta nghĩ rằng mình không hề nói dối, tại sao người đó lại nói rằng mình là kẻ nói dối. Ngay thời điểm đó ta phải nhận ra được mình đang chấp vào cái ngã đó như thế nào. Cái tôi mà ta đang chấp thật ngay lúc đó rất khác biệt.
Cụ thể, ở đây ta phải phân biệt 2 cái ngã: một cái ngã có tồn tại và một cái ngã không có tồn tại. Cái ngã có tồn tại chính là cái ngã trong cuộc sống bình thường của mình, lúc ta không có cảm xúc mãnh liệt.
Điều quan trọng ở điểm then chốt thứ nhất là ta phải phân biệt được cái tôi hiện hữu độc lập và cái tôi quy ước. Cái tôi hiện hữu độc lập là đối tượng cần phải bị bác bỏ, trong khi cái tôi quy ước là cái tôi bình thường, hiện hữu trên phương diện quy ước.
Nếu không phân biệt được 2 cái tôi này, chúng ta không có cách gì hiểu được vô ngã. Chính vì không biết sự khác biệt giữa 2 cái tôi này nên sau khi phủ định cái tôi tồn tại độc lập, tức là đối tượng cần phải bị bác bỏ, ta lại phủ định luôn cái tôi bình thường, tức là cái tôi hiện hữu trên phương diện quy ước thì lúc đó sẽ không còn lại gì cả. Khi ấy, ta sẽ rơi vào trạng thái cực biên là không có gì tồn tại cả. Cho nên, rất nhiều triết gia đi trước, những hành giả thời xa xưa không biết được ranh giới của sự phủ định. Nếu phủ định xong cái tôi hiện hữu độc lập rồi lại tiếp tục phủ định luôn cái tôi quy ước thì sẽ không còn lại gì cả và người đó đã đi sai đường.
Tổ Tsongkhapa là đạo sư tiên phong trong việc chỉ ra được sự khác biệt giữa cái tôi quy ước, tức là cái tôi không nên bị phủ định và cái tôi hiện hữu độc lập, tức là cái tôi cần phải bị bác bỏ. Hai câu kệ cuối trong Migtsema (Thỉnh nguyện Lama Tsongkhapa) đã tôn xưng đạo sư Tsongkhapa là ngọc quý trên đỉnh các bậc Thánh xứ tuyết là bởi vì Ngài Tsongkhapa đã chỉ ra rất rõ ranh giới giữa 2 cái tôi này.
Để phân biệt được cái tôi hiện hữu độc lập với cái tôi quy ước, điều đầu tiên là chúng ta phải học hỏi kinh điển nhằm hiểu được sự khác biệt giữa 2 cái tôi này, sau đó mới đi vào phần thiền định. Cho nên, chúng ta phải học giáo lý trước, Thầy sẽ hướng dẫn cách thiền định sau.
Chúng ta hãy đặt một câu hỏi cho bản thân mình: “Kẻ nào là kẻ lừa dối mình nhiều nhất?”. Bản thân ta chính là người lừa dối mình nhiều nhất. Có những điều nhiều năm trước chúng ta cho là đúng, bây giờ lại cho là sai. Ngược lại, bây giờ ta cho là sai nhưng ngày mai ta lại nghĩ rằng điều đó là đúng. Khi ta đã cho điều đó là đúng mà có người nói với mình điều đó là sai thì ta lại chỉ trích người kia là kẻ nói dối. Ta cứ thay đổi quan điểm liên tục như thế, điều đó chứng tỏ bản thân ta mới là kẻ dối gạt mình nhiều nhất.
Tại sao có lúc ta cho rằng điều đó là đúng rồi một thời gian sau lại đổi ý, cho đó là sai? Bởi vì hiện tại ta không có khả năng phân biệt được 2 cái tôi: một cái tôi quy ước và một cái tôi hiện hữu độc lập nên ta bị cái tôi hiện hữu độc lập đó lừa dối. Nếu muốn thực sự khám phá bản thân mình là ai thì có một cách đơn giản là suốt ngày cứ mang theo thẻ căn cước công dân, nhìn vào đó hoài thì sẽ biết mình là ai (Rinpoche cười).
Để hiểu vô ngã, đầu tiên, ta phải phân biệt được 2 cái tôi: cái tôi quy ước và cái tôi hiện hữu độc lập và cách ta nắm bắt cái tôi đó như thế nào. Trong những cuộc đối thoại hằng ngày, ta dùng chữ “tôi” để xưng hô, định danh chính mình. Có lúc ta ngầm định chữ “tôi” đó là cái tôi hiện hữu độc lập. Rồi có những tình huống khác cái tôi đó chỉ đơn thuần là cái tôi quy ước mà thôi. Làm cách nào để phát hiện được lúc nào ta dùng chữ “tôi” để ám chỉ đến cái tôi hiện hữu độc lập và lúc nào ta dùng chữ “tôi” để ám chỉ đến cái tôi quy ước? Ta phải nhận ra được những thời điểm khác nhau đó.
Nếu chúng ta muốn hiểu thêm về cái tôi quy ước, Thầy nói rằng đầu tiên, chúng ta phải nhận biết có 2 cái tôi như thế trước đã: một cái tôi quy ước và một cái tôi mà ta chấp rằng nó hiện hữu độc lập. Sau này Thầy sẽ giải thích cặn kẽ thêm 2 cái tôi này.
Bây giờ ta đi tiếp một bước sâu hơn: thế thì cái tôi nào có tồn tại và cái tôi nào không tồn tại? Cái tôi quy ước là cái tôi có tồn tại và cái tôi mà ta chấp rằng nó hiện hữu độc lập nhưng thực tế cái tôi đó không tồn tại. Thầy có thể nói cho chúng ta phương pháp để xác định 2 cái tôi này nhưng ta hiểu được tới đâu là do tự thân mình vận dụng các phương pháp này trong thiền định.
Ở điểm này Thầy chỉ có thể hướng dẫn cho chúng ta phương pháp, tức là hướng dẫn sự khác biệt giữa cái tôi quy ước và cái tôi hiện hữu độc lập. Để biến nó thành trải nghiệm thực thụ của mình, chúng ta nhất định phải đi vào thiền định.
Chúng ta biết rằng để hoàn tất được bậc Geshe Lharampa (tương đương tiến sĩ), theo truyền thống tu viện, sau khi học hết tất cả các giáo lý, người học sẽ phải trải qua các kỳ thi rất khó trong 6 năm, tức đi thi suốt 6 năm.
Thầy kể câu chuyện: có một vị thầy đi thi mà không biết viết gì trong kỳ thi đó. Khi ấy, thầy giám thị mới lén nhắc bài cho vị thầy đi dự thi. Dù đã được nhắc bài, nhưng vị thầy đi thi vẫn không biết ghi xuống như thế nào nên đã đưa cây bút cho thầy giám thị và nói thầy giám thị chép câu giải đáp xuống giùm mình (Rinpoche cười).
Tương tự như vậy, ở đây Thầy chỉ là người hướng dẫn cho chúng ta bản đồ hoặc là phương pháp để tiếp cận được trí tuệ về tánh không. Còn để thiết lập được trí tuệ đó trong tâm, chúng ta nhất định phải đưa những gì Thầy dạy vào thiền định, chứ Thầy không thể thay mình thiền định được.
Đâu là phương pháp để xác định được cái tôi quy ước và cái tôi hiện hữu độc lập? Ví dụ trong giao tiếp, ta nói “tôi đi uống nước” hoặc “tôi đi đến nơi này nơi kia”. Trong những tình huống bình thường như thế, chữ “tôi” được dùng trong 2 câu “tôi đi uống nước” và “tôi đi đến nơi này nơi loa” chính là cái tôi quy ước, tức là cái tôi có hiện hữu trên phương diện quy ước. Một tình huống khác là khi có người vu khống, nói mình là kẻ nói dối hoặc nói mình là kẻ ăn trộm, lúc đó ta phản ứng ngay rằng “tôi không có ăn trộm, tại sao anh lại nói tôi ăn trộm?”. Cái tôi trong lời giải thích rằng “tôi không có ăn trộm” chính là cái tôi hiện hữu độc lập. Ta chấp vào cái tôi này rất mạnh mẽ, cho rằng nó hiện hữu độc lập nhưng thực tế, cái tôi đó không tồn tại.
Chúng ta phải phân biệt được cái tôi hiện hữu độc lập, không có tồn tại với cái tôi quy ước có tồn tại. Khi đã hiểu được điểm này, ta phải tìm cách xác định trong lúc dùng chữ “tôi” để ám chỉ bản thân thì lúc nào đó là cái tôi quy ước, có tồn tại và lúc nào đó là cái tôi dối gạt, không có tồn tại. Ta phải xác định và phân biệt cho được 2 cái ngã: một cái ngã có tồn tại và một cái ngã hoàn toàn không tồn tại.
Bây giờ ta đi một bước sâu hơn nữa: không chỉ xác định lúc nào ta đang dùng cái “tôi” nào trong giao tiếp mà còn phải quan sát xem tâm mình bám chấp vào 2 cái tôi đó theo 2 cách khác nhau như thế nào. Ví dụ, khi nói “tôi đang uống nước”, ta phải quan sát xem ta đang nhìn cái tôi đó theo cách nào và ta có đang bám chấp vào cái tôi đó rất mãnh liệt hay không, hoặc là ta không quan tâm cái tôi đó tồn tại như thế nào. Một tình huống đối lập là khi ta phát sinh sân hận, nghĩ rằng người đó làm tổn thương mình. Ngay thời điểm phát sinh cơn giận, bất thình lình cảm giác về cái tôi trỗi dậy cực kỳ mãnh liệt, trong tâm phát sinh những cảm xúc rất tiêu cực. Cái tôi đó trỗi dậy mạnh mẽ một cách rất thật, khiến ta có cảm giác như thể cái tôi đó tồn tại độc lập mà không phụ thuộc vào bất cứ một nguyên nhân, một nhân duyên nào khác.
Ta cần phải phân biệt được cách mà ta đang nhìn nhận 2 cái tôi. Thời gian đầu đi tìm sự khác biệt giữa 2 cái tôi này, ta thấy khá khó nhưng nếu liên tục duy trì thực hành, dần dần quá trình phân biệt 2 cái tôi này sẽ dễ dàng hơn. Điều quan trọng là ta phải đọc đi đọc lại nhiều lần phần tánh không trong sách Giải Thoát Trong Lòng Tay để hiểu cặn kẽ phần này. Nếu như ta không nghiên cứu giáo lý thì điều chắc chắn là ta sẽ không đạt được bất kỳ chứng ngộ nào về tánh không.
Một số học trò từng chia sẻ với Thầy rằng sách Giải Thoát Trong Lòng Tay phiên bản tiếng Việt khá khó hiểu. Đối với sách Giải Thoát Trong Lòng Tay bằng tiếng Tây Tạng và tiếng Anh, Thầy nhận thấy khá dễ hiểu. Thầy không biết bản dịch tiếng Việt có vấn đề gì hay không, vì nếu như dịch kinh điển qua tiếng Việt mà dùng những chữ khó thì người mới học sẽ thấy bất lực, không hiểu được gì cả. Nếu nhận thấy sách Giải Thoát Trong Lòng Tay phiên bản tiếng Việt quá khó hiểu, chúng ta thử tìm bản tiếng Anh rồi nhờ ChatGPT, AI phiên dịch từ tiếng Anh qua tiếng Việt đọc xem có dễ hiểu hơn không (Rinpoche cười). Chúng ta hãy nỗ lực theo nhiều cách khác nhau để hiểu được bài giảng.
Bây giờ đến phần thực hành thiền, chúng ta đã biết phải thiền như thế nào hay chưa? Những gì chúng ta thiền là cần phải xác định được cách nhìn nhận 2 cái tôi khác nhau như thế nào. Sau khi Thầy hướng dẫn, thời gian đầu có lúc chúng ta sẽ thấy không biết thiền gì trong thời thiền nhưng nếu nỗ lực làm nhiều lần, dần dần ta sẽ nhận ra mình nên thiền gì. Việc gặp khó khăn thời gian đầu là rất bình thường.
Bắt đầu từ tuần này chúng ta hãy thiền về tánh không. Điều chúng ta cần thiền là phải xác định được mình đang chấp vào cái tôi như thế nào. Trong cuộc sống hằng ngày, khi nghĩ đến cái tôi, ta phải xem mình đang nắm bắt cái tôi đó như thế nào. Trong những tình huống kịch tính như khi có người làm tổn thương mình, lúc đó ta sẽ thấy một cái tôi hiện hữu độc lập trỗi dậy một cách mạnh mẽ. Ngay lúc đó ta phải quan sát xem mình chấp vào cái tôi đó như thế nào. Ta phải biết rằng cái tôi hiện hữu độc lập đó là cái tôi sai lầm.
Điểm then chốt thứ nhất này là xác định đối tượng cần phải bị bác bỏ. Đối tượng cần phải bị bác bỏ ở đây chính là cái tôi sai lầm. Khi ta đã xác định được cái tôi sai lầm đó và bác bỏ nó thì ngay lập tức hiểu được vô ngã.
- Điểm then chốt thứ 2 là xác định toàn bộ những khả tính:
Bây giờ chúng ta phải nhìn vào cái tôi sai lầm. Hãy đặt một câu hỏi: nếu như cái tôi sai lầm đó có hiện hữu thì cái tôi đó có là một với thân của mình hay là một với tâm của mình?
Ta phải luôn nhớ rằng có 4 bốn điểm then chốt về tánh không và trong quá trình thiền định, ta phải biết rõ bản thân đang thiền ở điểm nào. Sách Giải Thoát Trong Lòng Tay đã giải thích rất cặn kẽ phần thiền định về tánh không này theo tư tưởng của Ngài Long Thọ và sách cũng hướng dẫn cho chúng ta cách áp dụng tư tưởng của Ngài Long Thọ vào quá trình thiền định của mình.
Trong quá trình thiền định về tánh không, Tổ Tsongkhapa đã có được linh kiến trực tiếp từ Đức Phật Văn Thù và 4 điểm then chốt này được truyền trực tiếp đến Tổ Tsongkhapa từ Đức Phật Văn Thù.
Ở điểm này có một vài giáo lý quan trọng mà chúng ta cần phải học thuộc lòng: trong quá trình thực hành, Tổ Tsongkhapa đã diện kiến trực tiếp Đức Phật Văn Thù và nhận chỉ giáo về 4 điểm then chốt này. Ngài đã đưa vào thực hành thành công và hướng dẫn lại trong Giải Thoát Trong Lòng Tay.
Trong thời thiền về tánh không, sẽ có lúc ta gặp chướng ngại, lúc đó hãy tạm ngừng thiền định và quán tưởng Ruộng Phước. Chúng ta hãy khẩn cầu Ruộng Phước ban ân phước cho mình để vượt qua chướng ngại trong thiền định về tánh không. Cụ thể, ta quán tượng từ Ruộng Phước tuôn chảy xuống tất cả những ân phước và thấm nhập vào con người mình. Sau khi khẩn cầu Ruộng Phước, ta quay trở lại tiếp tục thiền quán. Và nếu như gặp chướng ngại lần nữa, ta tiếp tục quán tưởng Ruộng Phước.
Tất cả những kiến giải về tánh không của Tổ Tsongkhapa đều rất tương hợp với những tư tưởng về tánh không mà Ngài Long Thọ đã giải thích từ trong quá khứ.
Tuần này chúng ta hãy thiền về tánh không theo các bước Thầy đã hướng dẫn hôm nay và trong lúc thiền quán về tánh không, chúng ta phải luôn nhớ kết hợp với khẩn cầu Ruộng Phước bất cứ khi nào gặp chướng ngại. Hễ trong thời thiền gặp chướng ngại, ta hãy chuyển sang khẩn cầu Ruộng Phước rồi tiếp tục thời thiền.