Lamrim 2023
TUẦN 109 – NGÀY 29/10/2025
CHỦ ĐỀ: SÁU BA LA MẬT – TRÍ TUỆ (tiếp theo)
(Geshe Lharampa Thabkhe Lodroe hướng dẫn)
Thầy và học viên cùng phát khởi động cơ thanh tịnh trước buổi học pháp, bắt đầu tụng kệ Quy y Tam Bảo và phát tâm bồ đề (3 lần). Chúng ta đang thực hành pháp Đại thừa, không những nghĩ đến lợi ích của bản thân mà còn nghĩ đến lợi lạc của tất cả mọi chúng sanh. Bắt đầu buổi học với động cơ đúng đắn và kết thúc bằng việc hồi hướng, việc học pháp mới trọn vẹn và thành tựu viên mãn.
Thầy giới thiệu tóm lược 4 học phần của Lamrim (xem mục lục sách Giải Thoát Trong Lòng Tay, quyển 1, trang 699 đến trang 702 và quyển 2, trang 426 đến trang 427).
Tổ Atisha sáng tác Ngọn Đèn Soi Đường Giác Ngộ. Tổ Tsongkhapa sáng tác Lamrim đại luận và tiểu luận. Ngài Pabongka Rinpoche sáng tác Giải Thoát Trong Lòng Tay.
Bộ luận Lamrim có 3 đặc điểm chính:
(1) Đặc điểm thứ nhất là có đề cập cả kinh điển và Mật điển.
(2) Đặc điểm thứ hai là chủ yếu hướng dẫn phương pháp thực hành pháp, không đề cập nhiều nội dung tranh biện lý luận như Bát Nhã, Trung Quán.
(3) Đặc điểm thứ ba là Ngài Long Thọ đã sáng lập nên Tông Trung Quán và luận giải sâu rộng nhiều bộ luận về thắng quán. Ngài Vô Trước đã sáng lập nên Tông Duy Thức và luận giải nhiều bộ luận về thiền tịnh chỉ. Trong Lamrim có trích dẫn nguồn gốc nhiều bộ luận theo tư tưởng tông phái của hai vị luận sư này.
Trong 4 học phần của Lamrim, Phạm vi nhỏ, Phạm vi trung bình, Phạm vi lớn là rất quan trọng.
Phạm vi lớn chủ yếu nói về cách phát tâm bồ đề, sáu ba la mật. Trong sáu ba la mật, thiền định ba la mật chủ yếu hướng dẫn thiền tịnh chỉ, còn trí tuệ ba la mật chủ yếu hướng dẫn cách đào luyện tuệ quán đặc biệt. Tánh không là một chủ đề khá khó. Lần đầu tiên học tánh không, chúng ta khó có thể hiểu được một cách sâu sắc và rõ ràng nên cần phải xem đi xem lại nhiều lần. Lúc thiền, ta cần phải thiền quan sát, soi xét kỹ lưỡng về nghĩa của tánh không. Mỗi lần có trải nghiệm như thế, chúng ta sẽ hiểu thêm một ít về tánh không.
Theo quan điểm Phật giáo nói về thắng quán, gồm có 2 phần: quan kiến về thuyết duyên khởi và thực hành bất bạo động, nghĩa là không hãm hại các chúng sinh. Đức Phật đã giảng dạy nhiều kinh điển về thuyết duyên khởi như Bát Nhã Tâm Kinh, Bát Nhã Bát Thiên Tụng, Bát Nhã mở rộng, Trung Bát Nhã, Bát Nhã giản lược, Bát Nhã Thập Vạn Tụng. Ngài Long Thọ đã sáng tác các bộ luận như Trung Quán Căn Bản Trí Tuệ, Bảo Hành Vương Chính Luận, Long Thọ Bồ Tát Khuyến Giới Vương Tụng.
Thầy giới thiệu tóm lược thangka 17 vị luận sư Nalanda. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã soạn tác bài kệ Xưng Tán 17 Vị Luận Sư Nalanda. Trong thangka 17 vị luận sư Nalanda, có 5 vị luận sư theo Tông Trung Quán. Luận sư Long Thọ là sư phụ và Ngài Thánh Thiên, Phật Hộ, Thanh Biện, Nguyệt Xứng là học trò theo Ngài Long Thọ.
Ngài Long Thọ đã luận giải cả kinh điển và Mật điển. Lỗi lạc nhất trong số các đệ tử của Ngài Long Thọ là Ngài Thánh Thiên. Ngài Thánh Thiên chính là tác giả của 400 Bài Kệ. Ngài Phật Hộ đã sáng tác Luận Giải Căn Bản Trung Quán. Có 8 tác phẩm luận giải về Trung Quán Căn Bản Trí Tuệ của Ngài Long Thọ. Theo Phật giáo Tây Tạng, có 3 tác phẩm nổi tiếng luận giải về Trung Quán Căn Bản Trí Tuệ là Luận Giải Căn Bản Trung Quán của Ngài Phật Hộ, Ngọn Đèn Trí Tuệ của Ngài Thanh Biện và Minh Cú Luận của Ngài Nguyệt Xứng.
Ngài Thanh Biện sáng lập Trung Quán Y Tự Khởi và Ngài Nguyệt Xứng sáng lập Trung Quán Ứng Thành. Khi Ngài Thanh Biện và Ngài Phật Hộ tranh biện lý luận chứng minh luận giải Trung Quán Căn Bản Trí Tuệ thì Ngài Thanh Biện chứng minh lập luận theo tư tưởng Trung Quán Y Tự Khởi, còn Ngài Nguyệt Xứng nói rằng cách lập luận này không phù hợp với luận giải Trung Quán Căn Bản Trí Tuệ của Ngài Long Thọ. Cách lập luận phù hợp với luận giải Trung Quán Căn Bản Trí Tuệ là theo tư tưởng Trung Quán Ứng Thành của Ngài Phật Hộ. Cuộc tranh biện lập luận diễn ra rất thâm sâu giống như cuộc tranh luận nổi tiếng giữa nhà khoa học Albert Einstein và Niels Bohr vào thế kỷ 20.
Tịnh chỉ là khả năng thiền tập trung vào đối tượng trong một khoảng thời gian mà không bị phân tâm, tán loạn. Thắng quán là khả năng thiền phân tích. Ngài Thanh Biện và Ngài Phật Hộ khi đề cập đến thiền phân tích như phân tích tâm từ, tâm bi, các hành đều vô thường, quy y, tâm từ bỏ thì cả hai vị đều không có tranh luận khác biệt nhiều, nhưng khi phân tích về tánh không thì có rất nhiều tranh luận chi tiết sâu sắc khác nhau.
Nếu chỉ thực hành phương tiện như thực hành tâm buông xả hoặc tâm bồ đề thôi mà không thực hành trí tuệ chứng tánh không thì mãi mãi không thể giải thoát khỏi gốc rễ luân hồi và thành Phật được. Thực hành tánh không là điều tiên quyết để quyết định có thể đạt giải thoát và thành Phật được hay không.
Ví dụ, nhiều bậc cha mẹ thương yêu con nên nuông chiều theo mong muốn của con như cho con ăn kẹo, kem, sô-cô-la hay cho con mua quần áo… Nuông chiều như vậy là không tốt. Cha mẹ cần phải có trí tuệ phân tích thức ăn này có tốt cho sức khỏe của con hay không, quần áo này có hại cho con hay không. Cha mẹ cần phải biết điều nào thật sự cần hay không cần thiết cho con. Cho nên cha mẹ chăm sóc con cái cũng cần có cả phương tiện là tâm từ bi và trí tuệ phân tích.
Ngày nay, mỗi khi cảm thấy không vui, khó chịu, chúng ta thường tìm đến phương pháp thiền hơi thở hay đi đến khu rừng yên tĩnh, nơi bình an để giúp chữa lành tâm bất an. Hoặc phương pháp khác là phân tích đi tìm nguyên nhân tại sao khiến mình không vui, khó chịu.
Nhà tâm lý học phương Tây nghiên cứu tìm ra phương pháp trị liệu hành vi nhận thức (CBT) giúp vượt qua nhiều thử thách về sức khỏe tinh thần, tâm lý bất an, lo âu, căng thẳng... Trọng tâm của CBT là suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của chúng ta có mối liên hệ với nhau được minh họa bằng hình tam giác. Nhờ phương pháp trị liệu CBT có thể cải thiện sức khỏe tinh thần, giúp giảm bớt tâm lý bất an. Phương pháp này không giống như thiền phân tích thắng quán là đi tìm cái tôi và phủ định nó. Đây là phương pháp trị liệu hành vi nhận thức giúp nhận biết được suy nghĩ tiêu cực, nhìn nhận các tình huống rõ ràng và phản ứng hiệu quả giúp cải thiện sức khỏe tâm lý. Thiền phân tích thắng quán vô ngã là phương pháp trị liệu tâm lý.
Thiền phân tích thắng quán cao nhất là quan điểm tánh không. “Tánh không” có nghĩa như thế nào? “Tánh” là bản chất, tính chất. “Không” là phủ định. Để biết tánh không như thế nào, ta cần phải biết tánh không đó đang phủ định cái gì? Đối tượng nào tánh không đang bác bỏ, đang phủ định? Cho nên đầu tiên, ta phải biết được đối tượng mà tánh không đang bác bỏ, sau đó mới hiểu được tánh không là gì.
4 điểm then chốt về tánh không:
(1) Xác định đối tượng cần bác bỏ.
(2) Xác định toàn bộ các khả tính.
(3) Ngã và uẩn không phải là một.
(4) Ngã và uẩn không thực sự là khác.
Trước khi phân tích quan điểm tánh không đặc biệt thâm sâu, chúng ta cần phân tích, hiểu về quan điểm vô thường, xác định tính phi hữu của bản ngã, quan điểm tánh không.
Đầu tiên, phân tích quan điểm vô thường thì hiểu là đang nắm giữ đối tượng cho là thường. Phân tích không có thì hiểu là đang nắm giữ đối tượng cho là có. Xác định tính phi hữu của bản ngã thì hiểu là đang nắm giữ đối tượng cho là có ngã. Xác định tính không chân thật thì hiểu là đang nắm giữ đối tượng cho là có thành lập chân thật. Chúng ta cần hiểu là có đang chấp trì nắm giữ đối tượng hay không. Đó chính là xác định cái gì cần bác bỏ.
Ví dụ, ta đi chơi đến thác nước Bagsunag thì vô tình bị dòng nước cuốn mất chiếc giày và từ lúc đó trở đi tâm mình chấp trì gán đặt tại chỗ dòng nước này làm mình bị mất chiếc giày. Lần sau, ta và bạn lại đến chơi ở thác nước Bagsunag. Ta liền chỉ cho người bạn biết chính dòng nước này đã cuốn mất chiếc giày của mình. Bởi vì ta chấp trì dòng nước lần trước và lần này là một, cùng bản chất thường hằng, không thay đổi. Nhưng bản chất 2 dòng nước mỗi sát na đều thay đổi mà mình cứ chấp trì không thay đổi. Vì vậy, dòng nước hôm nay đâu có cuốn trôi chiếc giày của mình.
Vào buổi tối, ta suy nghĩ đến việc lên kế hoạch ngày mai sẽ đi đến văn phòng và đi chợ. Bởi vì ta chấp trì thời gian tối nay và ngày mai là một, cùng bản chất thường hằng, không thay đổi. Nhưng thời gian luôn thay đổi, không chắc chắn 100% sẽ diễn ra theo đúng kế hoạch được, nên không thể nào khẳng định sẽ có thể đi đến văn phòng và đi chợ vào ngày mai được.
Ta biết rằng tình huống trong phim không có thực, nhưng lúc xem phim, ta vẫn bị tác động, khiến mình vui buồn yêu ghét nhân vật trong phim. Ta vẫn chấp trì sự giả dối đó cho là thực tế.
Khi ta nhìn quyển sách dày thấy có nhiều trang giấy, có nhiều chữ, ta đưa ra lập luận rằng “Trang giấy này là quyển sách, con chữ là quyển sách”. Nếu nói như vậy, ta có tìm ra được quyển sách nằm ở đâu trong trang giấy, nằm ở đâu trong con chữ hay không? Không thể tìm thấy quyển sách nằm ở vị trí nào trong các tờ giấy, con chữ.
Chúng ta thường nghĩ rằng may mắn có được thân người. Bây giờ hãy thực hành thiền 1-2 phút đi tìm tâm thức cái tôi có ở vị trí nào trên cơ thể, tìm xem cái tôi có ở đầu, mắt, tim, bụng, phổi, gan, thận, tay, chân... hay không. Người phương Tây cho rằng tâm thức cái tôi ở não, còn người phương Đông cho rằng tâm thức cái tôi ở ngay tim. Nhưng khi thiền phân tích đi tìm kiếm cái tôi thì không tìm ra được cái tôi ở não và tim. Nếu không thực hành thiền phân tích thì khi bị ai nói mình là đồ ăn cắp thì lúc ấy cái tôi vững chắc sẽ phản ứng nổi sân giận ngay lập tức.
Khi phân tích “Ngã và uẩn không phải là một”, chủ yếu phân tích tôi và ngũ uẩn là một hay không; tôi và sắc của tôi là một hay không; tôi và sắc của tôi là một chân thật thành lập hay không; tôi và sắc của tôi có cách trình hiện và cách trụ bản tánh là một hay không.
Tương tự phân tích tôi và cảm thọ của tôi là một hay không; tôi và tưởng của tôi là một hay không; tôi và hành của tôi là một hay không; tôi và thức của tôi là một hay không; sắc, thọ, tưởng, hành, thức là một hay không; sắc, thọ, tưởng, hành, thức là một chân thật thành lập hay không.
Khi phân tích “Ngã và uẩn không thực sự là khác”, chủ yếu phân tích tôi và ngũ uẩn là khác hay không; sắc, thọ, tưởng, hành, thức là khác hay không.
Chúng ta thực hành thiền phân tích lập luận tìm kiếm nhiều lần, đó chính là phương pháp thiền về tánh không.