17-09-2025
Lamrim 2023
Download MP3

TUẦN 103 – NGÀY 17/09/2025

CHỦ ĐỀ: SÁU BA LA MẬT - TRÍ TUỆ

(Geshe Lharampa Thabkhe Lodroe hướng dẫn)

Thầy và học viên cùng phát khởi động cơ thanh tịnh trước buổi học pháp. Bắt đầu tụng kệ Quy y Tam Bảo và Phát tâm bồ đề (3 lần). Chúng ta đang thực hành pháp Đại thừa, không những nghĩ lợi ích cho bản thân, mà còn nghĩ đến lợi lạc của tất cả mọi chúng sanh. Với động cơ bắt đầu đúng đắn và kết thúc hồi hướng, việc học pháp mới trọn vẹn, thành tựu viên mãn.

Chúng ta hãy tìm chỗ ngồi thoải mái, thả lỏng thân - tâm và hít hơi thở thật sâu (3 lần).

Thầy giới thiệu tóm lược 4 học phần của sách Giải Thoát Trong Lòng Tay (xem quyển 1, từ trang 699 đến trang 702 và quyển 2, từ trang 426 đến trang 427).

Người thực hành phạm vi lớn có mong muốn thoát khổ và được giải thoát, nhưng mong muốn đó không chỉ cho bản thân mà vì thấy tất cả mọi người xung quanh cũng đau khổ giống mình nên mong muốn đạt được Phật quả để giúp tất cả mọi người đều thoát khổ và được giải thoát.

Thực hành phát tâm bồ đề là phương tiện tốt. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, nhiều người gặp các vấn đề về tâm lý nên thường áp dụng phổ biến về thiền tâm từ bi. Thầy đưa ra 2 tình huống:

Tình huống thứ nhất: Xã hội Hong Kong vào những năm 2023-2024 cơ sở vật chất tiên tiến, khoa học phát triển nhưng có nhiều cuộc tự tử xảy ra ở độ tuổi từ 25 đến 40 vì họ gặp nhiều vấn đề về tâm lý. Ở Hàn Quốc, tình trạng giới trẻ không kiếm được việc làm và nhiều nỗi lo sợ khiến tâm bất an nên cũng có nhiều vụ tự tử xảy ra. Phương pháp thiền tâm từ bi sẽ giúp ích cho sức khỏe tinh thần hơn là nói pháp.

Trước đây, ta nghĩ rằng việc cho tiền những người ăn xin mang đến cơ hội tích lũy thiện hành cho kiếp sau và người nhận cũng có được lợi ích. Nhưng nhà khoa học phương Tây không nghĩ như vậy. Họ nghĩ rằng giúp đỡ tạo lợi ích cho những người ăn xin có được thực phẩm thì người nhận và người cho trong xã hội đều hạnh phúc.

Tình huống thứ hai: Hiện nay thế giới có một số quốc gia xảy ra chiến tranh, rơi vào nhiều tình huống tồi tệ. Sâu thẳm trong suy nghĩ của tất cả chúng ta đều mong muốn bình an, hạnh phúc và không ai mong muốn thế giới có chiến tranh. Khi tâm thật sự mong ước tất cả mọi người đều hạnh phúc, ấm no, đó chính là phát triển tâm từ bi.

Thầy giới thiệu ông Frank Caprio, người Mỹ là vị thẩm phán nhân từ nhất thế giới được vinh danh trên Tạp chí Time. Ông nổi tiếng là vị thẩm phán liêm chính có nhiều cống hiến hỗ trợ giúp đỡ rất nhiều người trên thế giới. Ông đã mất vào tháng 8/2025. Mọi người trên thế giới yêu mến ông đã cầu nguyện khi biết tin ông mất. Trên thế giới có rất nhiều người mất nhưng tại sao ông được mọi người yêu mến như vậy? Vì ông là biểu tượng của công lý và lan tỏa tính nhân văn, lòng tử tế trong xã hội. Cho nên, Thầy giới thiệu hình ảnh của ông Frank Caprio, nhấn mạnh tâm từ bi rất quan trọng.

Phạm vi lớn nói về mong muốn đạt được Phật quả để giúp tất cả mọi chúng sanh đều thoát khổ và được giải thoát, thiền về tâm từ bi đến tất cả mọi chúng sinh. Ngoài ra, còn nói đến điểm đặc trưng của giáo lý đạo Phật là trí tuệ.

TRÍ TUỆ BA LA MẬT

Cách đào luyện tuệ quán đặc biệt (xem trang 306, quyển 2 Giải Thoát Trong Lòng Tay).

I/ Xác định tính phi hữu của bản ngã (còn gọi là nhân vô ngã)

II/ Xác định tính phi hữu của các hiện tượng (pháp vô ngã)

III/ Cách triển khai tuệ quán đặc biệt

Đức Phật nói rằng: “Chính bạn là người bảo vệ cho mình. Chính bạn là kẻ thù của mình”. Nghĩa là nhân khổ đau là chấp ngã, chấp thật, vô minh. Theo giáo lý đạo Phật, dù cho có cầu nguyện với Đức Phật cũng sẽ không thanh tịnh được hết nhân khổ đau, mà chúng ta cần phải văn - tư - tu, thiền về phương pháp tâm bồ đề và kết hợp thiền trí tuệ bát nhã, trí chứng tánh không thì dần dần mới đạt được Phật quả.

Ngoài ra, có quan điểm cho rằng khi có niềm tin vào đấng sáng tạo thì sẽ được giúp đỡ. Nếu không tin vào đấng sáng tạo thì sẽ đọa vào địa ngục. Đây không phải là quan điểm của đạo Phật.

Nói đến văn - tư - tu, tu có thể hiểu là thiền. Thiền có 2 loại là thiền chỉ và thiền quán. Gần đây có thiền tứ niệm xứ thì hình thức thiền này có sự khác biệt so với thiền quán (thiền phân tích). Thiền phân tích đầu tiên nói về phân tích các hành đều vô thường, tiếp đến phân tích vô thường vi tế, nhân vô ngã, tiếp đến là thiền phân tích duy tâm tất cả pháp theo Duy Thức Tông, cuối cùng là phân tích cao nhất là quan điểm tánh không.

Khi Đức Phật còn tại thế, tùy theo căn cơ của đệ tử, Ngài đã nói rất nhiều bài pháp khác nhau. Các bài pháp ấy tóm gọn lại được chia làm 3 lần chuyển pháp luân.

Ở lần chuyển pháp luân thứ nhất, Đức Phật giảng cho các đệ tử Kinh Bộ Tông và Hữu Bộ Tông, Ngài chỉ nói về nhân vô ngã, chứ không nói đến pháp vô ngã. Cụ thể, Ngài nói rằng không có một cái tôi nào tồn tại độc lập tự chủ so với các uẩn, cái tôi phải phụ thuộc vào các uẩn để tồn tại.

Sau đó, để phù hợp căn cơ của các đệ tử Duy Thức Tông, Đức Phật đã nói rằng có một số pháp có thực, một số pháp không có thực và Ngài đã giảng quan điểm về tánh không cho các đệ tử Duy Thức Tông sâu sắc hơn so với các đệ tử trong lần chuyển pháp luân thứ nhất. Tư tưởng này được trình bày trong kinh Giải Thâm Mật. Đó là lần chuyển pháp luân thứ 3.

Ở lần chuyển pháp luân thứ 2, Đức Phật chủ yếu giảng thuyết về tánh không cho các đệ tử với căn cơ thuộc về Trung Quán Tông được nói đến trong kinh Bát Nhã có Bát Nhã mở rộng, trung, tóm lược. Chúng ta thường tụng kinh Bát Nhã, được phân tích giảng giải tánh không trong kinh Bát Nhã mở rộng, trung, tóm lược.

Trong kinh Bát Nhã có phân tích câu “sắc tức là không, không tức là sắc”, nói về pháp vô ngã. Trước khi nói về pháp vô ngã thì nói về phân tích nhân vô ngã “tôi tức là không, không tức là tôi”. Cho nên, phân tích nhân vô ngã trước mới đến phân tích pháp vô ngã.

Tổ Tsongkhapa nhấn mạnh điểm quan trọng tánh không trong “Ba cốt tủy của đạo lộ”. Nếu chỉ thực hành phương tiện như thực hành tâm buông xả hoặc tâm bồ đề thôi mà không thực hành trí tuệ chứng tánh không thì mãi mãi không thể đạt giải thoát khỏi gốc rễ luân hồi và thành Phật được. Thực hành tánh không là điều tiên quyết để quyết định có thể đạt giải thoát và thành Phật được hay không.

Chúng ta không thể hiểu được ngay phần giảng giải về ý nghĩa của tánh không. Hãy suy nghĩ, phân tích, đọc đi đọc lại thì dần dần mới có thể hiểu một chút về ý nghĩa của tánh không.

I) Xác định tính phi hữu của bản ngã (còn gọi là nhân vô ngã)

- Làm thế nào để nhập định như không gian: tức nhập định thiền tánh không (xem trang 306, quyển 2 Giải Thoát Trong Lòng Tay)

Làm thế nào nhận biết “nhân, cái tôi, ngã” được thành lập như thế nào? Ví dụ, tôi là tu sĩ, tôi tên là Thabkhe. Khi đi tìm cái tôi là tu sĩ, là tên Thabkhe thì đôi lúc nghĩ cái tôi là cơ thể, hay thông qua cảm nhận, hay nghĩ cái tôi là tâm hay không? Bám chấp vào cái tôi đó có nghĩa là chấp ngã. Khi càng kiểm tra tìm cái tôi thì càng không tìm thấy được cái tôi qua cơ thể, cảm nhận, tâm, chỉ toàn là trống rỗng không tìm thấy. Cho nên, khi đi tìm phân tích cái tôi là bộ phận trên cơ thể hay không sẽ không tìm thấy được ở bất cứ nơi nào. Đó chính là “tôi tức là không”. Tuy nhiên, “tôi tức là không” nói như vậy thì tôi không có cảm xúc, không có cảm giác đau khổ, hạnh phúc hay sao? Tôi có cảm xúc, có cảm giác vui buồn, tôi có tên, tôi cũng có tích lũy nghiệp, đó chính là “không tức là tôi”.

- Khi tâm không nhập định, làm thế nào để giữ thái độ xem vạn pháp như huyễn (xem trang 334, quyển 2 Giải Thoát Trong Lòng Tay)

Tức là lúc không nhập định thì làm thế nào để xem các pháp như là mộng, như huyễn.

Khi ta thấy có người, có bạn bè, có nhà…, đó là cái thấy chấp thực, chấp từ phía tôi, chấp vào tìm thấy cái có trình hiện. Đó chính là sự trình hiện của tâm gắn đặt cho là có, nhưng không có sự trình hiện thành lập tương tự.

Ví dụ, khi ta mơ thấy thưởng thức món ăn ngon, bị chó cắn, bị người hãm hại, từ đó sanh tâm sợ hãi xuất hiện trong giấc mơ và ta nghĩ là sự việc diễn ra có thật trong giấc mơ. Nhưng khi tỉnh dậy thì hoàn toàn không có những việc trình hiện tương tự như trong giấc mơ, chỉ là mộng huyễn không có thật khi tỉnh giấc. Nếu sau khi thực chứng được tánh không, ta sẽ hiểu được bất cứ hiện tượng, pháp nào đều không có sự trình hiện thật sự tương tự.

Khi mắt ta thích nhìn bông hoa hay người đẹp nhưng người khác thì không cho là xinh đẹp, hay tai thích nghe âm thanh êm dịu, không ưa nghe những âm thanh la mắng, lưỡi nếm vị thức ăn ngon, như người phương Tây không thích ăn cơm, mũi thích ngửi hương thơm, thân có sự xúc chạm. Nhưng người khác lại không có sở thích giống như mình, không có sự chắc chắc đảm bảo mình thích cái này thì người khác cũng thích giống như mình được và mình cũng không thể theo sở thích của người khác được. Cho nên, không thể bám chấp cái tôi vào 5 nơi là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.

Để chứng minh lập luận nhân vô ngã, ta phải đi tìm cái tôi có tồn tại cố định, bám chặt trong thân - tâm hay không. Khi càng đi tìm cái tôi bên trong, ta sẽ không thấy có sự trình hiện cái tôi tương tự.

Khi Đức Phật vừa thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ngài đã ngồi im lặng trong suốt 49 ngày. Vì lúc đó Đức Phật thấy rằng trải nghiệm tánh không mà Ngài vừa thực chứng, nếu nói cho người thế gian thì người thế gian sẽ rất khó hiểu. Cho nên, Ngài đã giữ im lặng trong suốt 49 ngày ở Bồ Đề Đạo Tràng. Lúc ấy, Ngài Phạm Phiên đã thỉnh cầu Phật thuyết pháp và Phật đã chấp nhận ban pháp đầu tiên là Tứ Thánh Đế.

4 điểm then chốt về tánh không:

(1) Xác định đối tượng cần bác bỏ

(2) Xác định toàn bộ các khả tính

(3) Ngã và uẩn không phải là một

(4) Ngã và uẩn không thực sự là khác

(1) Xác định đối tượng cần bác bỏ

Nghĩa là xác định ta đang bám chấp vào cái tôi như thế nào và phân tích xem cái tôi trình hiện như thế nào?

Ví dụ 1: Nghĩ về đối tượng mà ta quý mến, tôn kính là bậc thầy hay đối tượng mà ta ưu thích là diễn viên nổi tiếng. Sau đó, ta phân tích cái tôi đưa ra những lập luận tại sao mình lại quý mến, ưa thích những đối tượng trên. Cái tôi là thân hay vứt bỏ cái thân này thì cái tôi là tâm có trình hiện quý mến đối tượng ưa thích trên hay không.

Ví dụ 2: Tôi đang rất sân giận, bực mình đối tượng kia vì đã nói xấu, hãm hại, đánh tôi làm tôi tổn thương. Lúc này, phân tích cái tôi trình hiện như thế nào và tiếp tục xem xét phân tích cái tôi đưa ra những lập luận tại sao tôi hay tâm tôi lại nghĩ bám chấp nghĩ về những lời gây tổn thương từ người đó.

Xác định cái tôi cần bác bỏ và xác định ta đang bám chấp vào cái tôi như thế nào. Giờ chúng ta thiền phân tích tìm cái tôi để xem cái tôi đang nằm ở đâu, ở bụng, tay, chân…? Quét hết cơ thể của mình xem thử cái tôi đang ở đâu, đang làm gì? Có phải là cái tôi cố định ở dạ dày hay không? Khi tìm khắp cơ thể không thấy bộ phận nào là cái tôi, lúc đó ta có thể suy nghĩ rằng cái thân này không phải là cái tôi mà có thể tâm mới chính là cái tôi. Ta có thể suy nghĩ như vậy. Khi nghĩ tâm là cái tôi, trong dòng tâm thức nghĩ tâm thấy hình ảnh bông hoa xinh đẹp thì tiếp tục phân tích đối tượng hình ảnh bông hoa xinh đẹp đó có tồn tại cái tôi ở bông hoa hay không. Ta tìm hoài và thấy rằng những tâm đó cũng không phải là cái tôi. Nếu nói tâm chính là tôi thì phải có cái tâm cố định làm cái tôi, không thể nhảy từ tâm này sang tâm khác làm cái tôi.

Chúng ta xem thêm bài giảng tánh không của thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Chúng ta nên đọc đi đọc lại, phân tích, suy nghĩ nhiều về tánh không, không thể nghe hay đọc phân tích tánh không một lần là có thể hiểu được ngay, mà cần phải tư duy dành nhiều thời gian nghĩ về tánh không, kết hợp với tịnh hóa ác nghiệp và tích lũy công đức.