03-09-2025
Lamrim 2023
Download MP3

TUẦN 101 - NGÀY 03/09/2025

CHỦ ĐỀ: SÁU BA LA MẬT - THIỀN ĐỊNH (tiếp theo)

(Tôn sư Khangser Rinpoche hướng dẫn)

Bây giờ Thầy sẽ tiếp tục hướng dẫn thiền chỉ (Samatha) - giai đoạn thứ 5 (xem trang 294, quyển 2 Giải Thoát Trong Lòng Tay). Ở giai đoạn thứ 5 sẽ có một số điều diễn ra khi hành giả bắt đầu tập trung rất sâu vào đối tượng thiền. Ở giai đoạn thứ 5, tức là định lực đã tiến bộ và ta bắt đầu tập trung khá vững trên đối tượng thiền thì hôn trầm vi tế sẽ xuất hiện.

Ở giai đoạn thứ 5 này, hành giả cần phân biệt được 2 loại hôn trầm: hôn trầm thô và hôn trầm vi tế. Ở đây, khi Thầy nói đến hôn trầm thì chính là hôn trầm thô, để phân biệt với hôn trầm vi tế. Khi hình ảnh đối tượng thiền hiện ra trước tâm bị mờ, không rõ ràng, đó là hôn trầm. Trong giai đoạn thứ 5, chướng ngại chính của thiền giả là hôn trầm nên cần phải tìm cách đối trị với chướng ngại này.

Hành giả cần phân biệt giữa hôn trầm thôhôn trầm vi tế:

- Hôn trầm thô: khi hình ảnh đối tượng thiền hiện ra trước tâm không được rõ ràng, đây là dấu hiệu cho thấy ta đang gặp chướng ngại hôn trầm thô.

- Hôn trầm vi tế: khi hình ảnh trước tâm tuy vẫn còn rõ, nhưng cường độ rõ nét của hình ảnh đó giảm dần, đó là hôn trầm vi tế. Nói cách khác, ta có thể giữ được hình ảnh rõ ràng trước tâm mình, nhưng cường độ rõ nét đã giảm bớt.

Ở giai đoạn thứ 5, ta phải phân biệt được hôn trầm thô và hôn trầm vi tế. Giả sử ta chọn pho tượng Phật làm đối tượng thiền, khi hình ảnh thân của pho tượng Phật hiện ra trước tâm mình không còn rõ nét, đó là hôn trầm thô. Nhưng trong giai đoạn thứ 5 này, còn có một chướng ngại vi tế hơn, đó là hôn trầm vi tế. Khi ấy, hình ảnh đối tượng thiền vẫn hiện rõ nét trước tâm mình, nhưng cường độ rõ nét rất yếu ớt, nghĩa là ta có thể mất đi sự rõ nét của đối tượng thiền bất cứ lúc nào. Đó chính là hôn trầm vi tế.

Thầy nói rằng sang giai đoạn này giáo lý bắt đầu khó hơn, vì đã đi sâu vào thiền định. Một nguyên nhân khiến ta cảm thấy bị rối là do ta chưa có trải nghiệm trực tiếp ở giai đoạn thứ 5. Khi đến giai đoạn này, ta bắt đầu phát hiện ra mình rơi vào hôn trầm và có thể nhận diện được 2 loại hôn trầm, lúc đó ta sẽ hiểu rõ hơn ý của Thầy.

Thầy đưa ra ví dụ để phân biệt giữa sự rõ nét của đối tượng thiền với cường độ rõ nét của đối tượng thiền. Giả sử ta thiền về một con rắn đang nằm trên đùi. Trong thời thiền đó, ta dựng hình ảnh con rắn nằm trên đùi rất rõ ràng trước tâm mình. Như vậy, ta có được sự rõ nét. Bây giờ, cường độ rõ nét được chứng minh bằng điều gì? Đó là khi ta thiền đến mức cảm thấy sợ con rắn. Tức là không những hình ảnh con rắn hiện rõ ràng trên đùi, mà thiền rõ đến mức làm ta sợ hãi, mặc dù thực tế con rắn không hề có ở đó. Khi khởi lên nỗi sợ như vậy, tức là cường độ rõ nét của đối tượng thiền rất mạnh.

Ở giai đoạn thứ 5 này, hành giả không chỉ duy trì sự rõ nét, mà còn phải duy trì luôn cả cường độ của hình ảnh thật rõ ràng. Nếu cường độ của hình ảnh giảm đi một chút thì ta bắt đầu rơi vào hôn trầm vi tế. Nếu không kịp thời ngăn chặn, dần dần ta sẽ chìm sâu vào hôn trầm vi tế, rồi rơi hẳn xuống hôn trầm thô, lúc đó hình ảnh sẽ không còn rõ nữa. Vì vậy, hôn trầm vi tế là chướng ngại chính của hành giả trong giai đoạn thứ 5.

Bây giờ Thầy sẽ mô tả thêm để chúng ta dễ hình dung hơn về chướng ngại này. Thầy mô tả hôn trầm vi tế có những đặc điểm như trên, nhưng chúng ta chưa thể có được sự hiểu biết trực tiếp, bởi vì bản thân chưa từng gặp chướng ngại về hôn trầm vi tế ở giai đoạn thứ 5. Điều này cũng giống như khi Thầy mô tả đặc điểm của một tên trộm mà chúng ta chưa gặp bao giờ, ví dụ như tên trộm đội nón trắng, mặc áo thun đỏ v.v. Biết rằng tên trộm có những đặc điểm mô tả như vậy, nhưng ta chưa thể hiểu rõ về tên trộm. Chỉ khi nào tận mắt thấy được tên trộm đó, ta mới “ồ” lên và khi đó mới thực sự hiểu được.

Sau giai đoạn thứ 5, hành giả bước sang giai đoạn thứ 6 - Trở nên an tịnh (xem trang 295, quyển 2). Ở giai đoạn thứ 6, chướng ngại chính không còn là hôn trầm vi tế nữa, mà là trạo cử vi tế.

Như Thầy đã giảng hôm trước, trong những giai đoạn đầu của thiền chỉ, ta được phép mất tập trung một phần, tức là một phần của tâm vẫn duy trì trên đối tượng thiền, trong khi một phần khác lại suy nghĩ chuyện khác. Trạo cử/phân tâm một phần như vậy được gọi là trạo cử vi tế.

Có sự khác biệt rất lớn giữa một trạng thái tâm hoàn toàn tập trung vào đối tượng và một trạng thái tâm vẫn tập trung vào đối tượng nhưng hơi bị phân tâm một chút. Năng lực của tâm khi hoàn toàn tập trung vào đối tượng là rất mạnh. Ngược lại, chỉ cần mất tập trung một chút thôi, năng lực của tâm trên đối tượng đã giảm sút rất nhiều, mà đôi khi ta không nhận ra được. Cho nên, khi ta đang tập trung giải quyết một vấn đề nào đó, năng lực giải quyết vấn đề của mình sẽ rất khác nhau giữa lúc tập trung 100% và tập trung chỉ 90%. Sự khác biệt này là rất lớn.

Ở giai đoạn thứ 6 của thiền chỉ, ta phải đối trị với trạo cử vi tế. Vậy làm cách nào để đối trị với trạo cử vi tế? Khi chúng ta đạt đến giai đoạn này và phát hiện ra mình đang rơi vào trạo cử vi tế, Thầy sẽ hướng dẫn phương pháp đối trị cụ thể.

Sau giai đoạn thứ 6 sẽ đến giai đoạn thứ 7, thứ 8 và thứ 9. Khi đã vượt qua được 2 loại chướng ngại vi tế là hôn trầm vi tế và trạo cử vi tế thì đến giai đoạn thứ 7, 8 và 9, hành giả sẽ tiến triển rất nhanh.

Thầy chỉ nói ngắn gọn về 3 giai đoạn này. Ở giai đoạn thứ 9, hành giả có thể thiền với khả năng tập trung hoàn toàn vào đối tượng thiền, mà không bị trạo cử hay hôn trầm, kể cả ở mức độ vi tế. Hơn nữa, hành giả có thể duy trì sự tập trung đó trong một thời gian rất dài mà hoàn toàn không cảm thấy mệt mỏi.

Tuy nhiên, giai đoạn thứ 9 vẫn chưa phải là Samatha. Đâu là sự khác biệt giữa giai đoạn thứ 9 và Samatha? Sự khác biệt nằm ở chỗ: ở giai đoạn thứ 9, hành giả có thể tập trung vào đối tượng bao lâu cũng không cảm thấy mỏi mệt, không bị hôn trầm hay trạo cử. Tuy nhiên, nếu hành giả ở giai đoạn thứ 9 một khoảng thời gian, đến một lúc nào đó sẽ cảm nhận được niềm hoan hỷ tột độ trong tâm. Nghĩa là giai đoạn thứ 9 cộng thêm sự hoan hỷ tột độ trong tâm khi thực hành thiền, đó chính là Samatha.

Khi đạt đến Samatha, trong lúc tập trung 100% vào đối tượng thiền, tâm sẽ phát sinh niềm hoan hỷ tột độ. Sự hoan hỷ đó xuất phát từ việc hành giả có thể duy trì sự tập trung vào đối tượng thiền mà tâm không hề mỏi mệt. Chính nhờ tâm hoàn toàn không mỏi mệt khi triển khai định lực trên đối tượng thiền, mà hành giả phát sinh được sự hoan hỷ tột độ.

Bây giờ Thầy phân biệt rõ ràng hơn giữa giai đoạn thứ 9đích đến Samatha. Ở giai đoạn thứ 9, trong suốt thời thiền, ta không còn gặp bất cứ chướng ngại nào nữa, tập trung được 100% vào đối tượng thiền mà không bị hôn trầm hay trạo cử. Tuy nhiên, nếu ta chưa đạt đến Samatha thì đôi lúc tâm vẫn dễ dàng cảm thấy mỏi mệt vì phải duy trì sự tập trung liên tục vào đối tượng thiền. Khi đạt đến Samatha, tâm hoàn toàn không mỏi mệt và đồng thời với sự không mệt mỏi đó chính là niềm hoan hỷ tột độ.

Cái khó trong thực hành thiền là mỗi người có mỗi trải nghiệm khác nhau ở từng giai đoạn trong thiền chỉ. Khi đạt đến Samatha, nhiều hành giả mô tả rằng cùng lúc với sự hoan hỷ tột độ trong tâm, họ cảm thấy thân thể rất nhẹ nhàng, đến mức có cảm giác như mình có thể bật nhảy rất xa từ chỗ này qua chỗ khác một cách dễ dàng. Đó là cảm giác khi đạt được tâm hỷ lạc trong thiền chỉ.

Một trải nghiệm khác là cảm giác thân thể trở nên nhẹ nhàng hơn. Khi đạt đến Samatha, họ cảm thấy nền đất dưới chân rất mềm mại. Vì họ thực thụ cảm nhận được thân rất nhẹ, áp lực bàn chân đặt xuống mặt đất hầu như không có nên họ cảm nhận nền đất ở đâu cũng mềm mại.

Tuy nhiên, trạng thái hoan hỷ tột độ kèm theo cảm giác nhẹ nhàng của thân vật lý không kéo dài lâu ở những hành giả này mà chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian ngắn rồi biến mất.

Thầy nói rằng có một điểm đặc biệt là cảm giác hoan hỷ tột cùng trong tâm, cộng với trải nghiệm thân thể nhẹ nhàng chỉ đến duy nhất một lần, đó là khi ta lần đầu tiên đạt đến Samatha. Tức là khi từ giai đoạn thứ 9 bước vào trạng thái Samatha, lần đầu tiên ta sẽ có được cảm giác đó và nó chỉ đến một lần. Nghĩa là cho dù sau đó ta vẫn tập trung được hoàn toàn vào đối tượng thiền bao lâu tùy thích, không bao giờ mỏi mệt thì cảm giác hoan hỷ tột độ đi kèm với trải nghiệm thân thể nhẹ nhàng cũng sẽ không xuất hiện lại nữa.

Thầy nhắc lại về điều sẽ xảy ra sau lần đầu tiên đạt được Samatha. Trong lần đầu tiên ấy, ta cảm nhận được niềm hoan hỷ tột độ trong tâm, đồng thời có sự nhẹ nhàng của thân vật lý. Tuy nhiên, ở những lần nhập định sau đó, cho dù ta có nhập định vào Samatha trở lại thì cũng không còn cảm nhận được cảm giác ấy nữa. Điều này không có nghĩa là ta mất khả năng nhập định vào Samatha, mà chỉ là không còn gặp lại cảm giác đó lần thứ 2 mà thôi. Ngoài ra, ta vẫn có thể triển khai định lực trên đối tượng thiền bao lâu tùy thích, mà không bao giờ bị mỏi mệt và không bị bất cứ chướng ngại nào quấy nhiễu.

Một điều thú vị như thế này: những người từng có cơ hội trải nghiệm niềm hoan hỷ tột độ cùng với cảm nhận thân vật lý cực kỳ nhẹ nhàng khi lần đầu tiên đạt đến Samatha và sau đó họ không còn cảm nhận được cảm giác đó lần nào nữa nên họ rất sợ họ bị mất định lực Samatha. Nhưng thực tế, định lực Samatha không hề mất đi, chỉ là trải nghiệm niềm hoan hỷ tột độ cùng với cảm nhận thân thể nhẹ nhàng không quay lại lần thứ 2 mà thôi.

Thầy đưa thêm một ví dụ: có bao giờ chúng ta cảm nhận được sự nhẹ nhàng trong cả thân và tâm khi chìm dần vào giấc ngủ hay không? Tại sao khi chìm vào giấc ngủ, thân cảm thấy thoải mái hơn và tâm cảm thấy an định, an lạc hơn? Đó là vì trong khoảng thời gian đó, tâm không còn bị phân tán nữa, tức là trạo cử không xuất hiện trong suốt tiến trình đi vào giấc ngủ.

Ngược lại, khi quá vui hoặc quá phấn khích về một chuyện gì đó, ta sẽ không ngủ được. Bởi vì lúc đó, tâm đã bị trạo cử chi phối, hoàn toàn bị mất tập trung nên ta không thể ngủ được. Ví dụ, nhiều người không ngủ được trong đêm giao thừa, bởi vì tâm cứ nghĩ hết kế hoạch ăn uống này đến kế hoạch tiệc tùng khác cho ngày đầu năm mới. Cho nên trong đêm giao thừa, họ thường khó ngủ.

Như vậy, cảm giác an lạc chỉ xuất hiện khi tâm hoàn toàn thoải mái, thả lỏng và trở nên an định. Trạng thái ấy chỉ xuất hiện khi ta hoàn toàn điều phục được trạo cử, tức là không để tâm nhảy từ đối tượng này sang đối tượng khác. Chính vì thế, khi đạt đến Samatha, lúc đó tâm hoàn toàn không còn bị trạo cử. Trên nền tảng đó, hỷ lạc nội tâm mới có thể phát sinh. Còn hiện tại, tâm ta thường xuyên bị trạo cử chi phối. Thậm chí trong giấc mơ, ta cũng không thoát được trạo cử nên ngay cả trong mơ, ta cũng không có được sự an lạc.

Cách đây 2 tuần khi còn ở Mông Cổ, Thầy có chia sẻ rằng Thầy bị sổ mũi do dị ứng với cỏ ở bên đó. Nhưng bây giờ Thầy đã quay trở lại Ấn Độ, tuy không còn sổ mũi nữa, nhưng Thầy lại thấy mũi quá khô. Lúc Thầy ở Mông Cổ, nơi có khí hậu khô thì Thầy lại bị sổ mũi. Khi trở về Ấn Độ, khí hậu mát mẻ thì lại bị khô mũi. Thầy phát hiện ra rằng thà bị sổ mũi còn hơn là bị khô mũi, bởi vì mũi khô sẽ gây đau. Nhưng chỉ mới 2 tuần trước, khi bị sổ mũi ở Mông Cổ, chắc chắn Thầy đã ước gì mũi khô lại. Suy nghĩ như thế gọi là luân hồi. Có một câu nói rất hay: “Khi còn sở hữu tài sản, ta ít thấy được giá trị của nó. Ta chỉ cảm nhận được giá trị chỉ khi đã mất đi rồi”.

Một đặc điểm khác của trạng thái Samatha là ta không cần phải gắng sức để giữ tâm trong định. Khi đã đạt đến Samatha, định đến một cách tự nhiên, không cần phải nỗ lực ra sức nữa.

Bài tập tuần này là hãy chuyển hẳn đối tượng thiền sang pho tượng Phật. Ta có thể chọn bất cứ pho tượng Phật nào và trong thời thiền hãy duy trì hình ảnh của pho tượng Phật hiện rõ trước tâm mình.

Nếu trong khi thiền, hình ảnh thân của Đức Phật không hiện rõ ràng trước tâm, ta phải làm gì? Khi thấy hình ảnh tượng Phật mờ dần, Thầy hướng dẫn chúng ta một kỹ thuật để đối trị. Giả sử ban đầu ta chọn thiền về toàn thân của Đức Phật. Nếu hình ảnh toàn thân của Đức Phật dần mờ đi, không còn rõ nữa thì hãy áp dụng kỹ thuật “phóng to” một khu vực nào đó trên đối tượng thiền. Ví dụ, thay vì thiền về toàn thân của Đức Phật, ta chỉ thiền về gương mặt của Ngài. Nếu gương mặt của Đức Phật cũng dần mờ đi thì ta lại tiếp tục phóng to, chỉ thiền về cặp mắt của Ngài. Bằng cách đơn giản hóa đối tượng thiền, ta sẽ cải thiện được sự tập trung. Hãy áp dụng kỹ thuật này để đối trị với chướng ngại “hình ảnh không còn rõ nét”.

Trong tuần này, ta phải nỗ lực không chỉ xây dựng được định lực, mà còn phải giữ được sự rõ nét của đối tượng thiền trước tâm mình. Cụ thể là phải giữ cho tâm không bị phân tán, quan sát xem có bị trạo cử hay không, có còn giữ được đối tượng thiền ban đầu hay không. Đồng thời, cần đảm bảo rằng đối tượng thiền xuất hiện trước tâm phải rõ nét.

PHẦN HỎI VÀ ĐÁP

Câu hỏi 1: Thưa Thầy, ở giai đoạn thứ 5, khi Thầy giải thích về hôn trầm vi tế, Thầy có nói rằng nếu ta mất đi cường độ rõ nét, vậy điều đó có đồng nghĩa với thời gian giữ được hình ảnh rõ ràng không được lâu hay không?

Rinpoche trả lời: Nó không đồng nghĩa với thời gian mà ta có thể giữ được hình ảnh rõ nét. Cường độ rõ nét được mô tả trong chướng ngại hôn trầm vi tế là khả năng cảm nhận hình ảnh đó sống động như thật ngay trước tâm mình. Khi thiền được một lúc, hình ảnh trước tâm dù vẫn còn rõ nét, nhưng lại không còn cảm nhận được nó giống như thật nữa thì có nghĩa là ta đã rơi vào hôn trầm vi tế.

Câu hỏi 2: Thưa Thầy, tại sao khi con mở mắt, hình ảnh thân của Đức Phật rõ ràng hơn so với khi nhắm mắt? Vậy khi thiền, con nên mở mắt hay nhắm mắt?

Rinpoche trả lời: Đây không phải là vấn đề trong thiền. Thực ra, nó không phải là vấn đề của bất cứ ai cả, mà là một thực tế hiển nhiên. Khi mở mắt, tất nhiên ta thấy hình ảnh tượng Phật rõ hơn. Ban đầu, khi nhắm mắt, hình ảnh đối tượng thiền sẽ không rõ. Đó là điều tự nhiên, bởi vì lúc đó ta chưa phát triển được định lực. Mục đích của thực hành thiền chính là luyện cho tâm có định lực, để hướng tâm vào một đối tượng duy nhất. Do đó, ta buộc phải nhắm mắt để tập trung, chứ không phải luyện khả năng nhìn rõ của mắt. Ta hãy cố gắng dựng lên đối tượng thiền trước tâm mình. Ban đầu hình ảnh sẽ không rõ, nhưng sau thời gian thực hành thiền, hình ảnh sẽ trở nên rõ ràng.

Câu hỏi 3: Thưa Thầy, khi phóng to gương mặt Đức Phật, có lúc gương mặt biến thành hung tợn. Đó là do tâm mình ác hay sao?

Thầy trả lời: Chúng ta không cần lo lắng về điều đó. Điều ta nên quan tâm là gương mặt hung tợn đó có rõ ràng hay không. Cho dù ta chọn đối tượng thiền nào đi chăng nữa thì đối tượng thiền đó cũng phải xuất hiện rất rõ nét trước tâm mình.

Bài tập về nhà tuần này: hãy chọn đối tượng thiền là pho tượng Phật và cố gắng dựng đối tượng thiền trước tâm mình. Ta phải nỗ lực làm 2 điều trong thời thiền. Thứ nhất là không để cho tâm bị trạo cử, tức là không để mất hoàn toàn đối tượng thiền. Thứ hai là quan sát xem đối tượng thiền có rõ nét trước tâm hay không.

Câu hỏi 4: Thưa Thầy, khi thiền sâu một hồi, con bị ngáp, chảy nước mắt liên tục, con phải làm thế nào?

Rinpoche trả lời: Chúng ta không làm gì cả. Đừng bận tâm đến các triệu chứng đó vì chúng đến rồi sẽ đi. Chỉ cần tập trung vào những chỉ dẫn thiền đang thực hành, các triệu chứng đó từ từ sẽ biến mất.

Nếu ngáp quá nhiều làm ảnh hưởng đến thời thiền thì ta có thể tạm nghỉ, đi uống một cốc cà phê. Nhiều khả năng sau đó sẽ không còn ngáp nữa (Rinpoche cười).