Chúng tôi chỉ hiểu có một phái Mật tông Tây Tạng xuất phát từ đạo Phật, nhưng chúng tôi lại thấy có Đạt-lai Lạt-ma, có những người mang tên Drukpa và Ngài mang tên Rinpoche. Xin Ngài giải thích những điểm chung và những điểm khác nhau. Môn phái Thầy đang theo khác với Đại thừa, Tiểu thừa như thế nào?

Chúng tôi đến từ Phật giáo Tây Tạng. Phật giáo Tây Tạng tập trung chủ yếu vào ba thừa: Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa; và cũng chú trọng vào nhiều pháp thực hành. Quý vị có thể thấy Phật giáo Tây Tạng nhấn mạnh hai điểm chính: tu học và thực hành.

Chúng tôi học những gì trong Phật giáo Tây Tạng? Có vài lĩnh vực chúng tôi phải học. Thứ nhất, chúng tôi học lý luận Phật giáo. Lý luận Phật giáo là một môn học mang tính khoa học rất cao. Chúng tôi chứng minh mọi điều qua lập luận bằng lý lẽ. Lấy thí dụ về lòng bi mẫn. Chúng ta phải thực hành lòng bi mẫn, vậy lợi ích của nó là gì? Lòng bi mẫn là gì? Làm thế nào thể thực hành lòng bi mẫn? Tất cả đều bằng lý lẽ. Chúng tôi học lý luận, rồi học tất cả các giai đoạn thực hành. Sau đó, chúng tôi học tất cả đạo lộ của hàng bồ-tát Đại Thừa. Đó là những gì chúng tôi học, và chú trọng vào thực hành. Khi học, chúng tôi chia sẻ kinh nghiệm của mình với người khác. Sau đó, chúng tôi sẽ học Kim Cang Thừa. Chúng tôi cần tối thiểu 18 năm để học Phật pháp. Nếu học chuyên sâu, tôi nghĩ phải cần ít nhất 21 đến 22 năm. Tôi đã học trong 18 năm, chỉ học trong suốt khoảng thời gian đó. Sau đó, chúng tôi học Kim Cang Thừa.

Kim Cang Thừa chủ yếu nói đến phương pháp dùng năng lượng của cơ thể, tâm và khí vi tế để kích hoạt thức vi tế. Tất cả những điều này được nói đến trong Kim Cang Thừa. Mục đích là kích hoạt thức vi tế. Kim Cang Thừa cũng dạy cách đón nhận gia trì từ nguồn năng lượng bên ngoài vào cơ thể chúng ta. Chẳng hạn như khi chúng ta cầu nguyện với chư Phật và chư Bồ-tát, năng lực gia trì tích cực sẽ đến.

Sáng nay tôi đã kể với quý vị về thí nghiệm trên ba chén cơm. Với chén thứ nhất, chúng tôi chạm tay vào và cầu nguyện. Chén thứ hai, chúng tôi chỉ cầu nguyện. Đối với chén thứ ba, chúng tôi không cầu nguyện hay chạm vào. Chúng ta có thể thấy cơm được cầu nguyện và cơm không được cầu nguyện rất khác nhau. Như tôi đã nói sáng nay, chén cơm không được cầu nguyện đã hỏng trong bảy ngày. Hai chén cơm còn lại vẫn chưa bị hỏng sau mười một hoặc mười hai ngày. Tôi có giữ lại hình ảnh trong máy tính của tôi. Giữa chén cơm được chạm vào và chén cơm không được chạm vào cũng có khác biệt rất lớn. Khi chạm vào cơm thì chúng tôi thấy hiệu quả hơn. Vì vậy, đôi lúc năng lượng có thể luân chuyển ra khỏi cơ thể chúng ta. Do nghiệp của mỗi người khác nhau nên một số người có cơ thể khá nhạy cảm trong việc tiếp nhận năng lượng. Một số người cảm thấy năng lượng luân chuyển trong cơ thể mình rất mãnh liệt, đó là do nghiệp của họ. Tôi sẽ chỉ cho quý vị một thí nghiệm có thật. Bây giờ hãy cọ xát hai bàn tay của quý vị vào nhau, sau đó đặt tay lên phía trên đỉnh đầu, cố gắng theo dõi sức nóng lan tỏa đến nơi nào trên cơ thể quý vị: khắp cơ thể, đầu, hay nơi nào khác. Trên đỉnh đầu có một luân xa, chúng ta hãy theo dõi xem năng lượng đó chạy khắp cơ thể như thế nào, sức nóng đi đến bộ phận nào trong cơ thể. Khi đặt tay như vậy, hãy quán tưởng có luồng ánh sáng trắng từ tay đi vào cơ thể. Hãy giữ yên lặng và làm như vậy hai hoặc ba lần để tập trung theo dõi sức nóng. Hãy nhắm mắt lại! Khi làm như vậy, quý vị sẽ cảm thấy cường độ năng lượng đi vào cơ thể như thế nào. Tuy nhiên, cường độ đó không giống nhau đối với tất cả mọi người. Một số người sẽ cảm nhận rất mãnh liệt, một số khác thì không cảm nhận được như vậy. Theo tôi, do nghiệp nên một số người có thể rất nhạy cảm với năng lượng.

Thực hành trong Kim Cang Thừa chủ yếu làm việc với những đối tượng của tâm và phải thực hành quán tưởng nhiều điều. Đây là một trong những điểm trọng yếu mà Kim Cang Thừa tập trung vào. Tuy nhiên, đối với mọi pháp hành, điểm trọng yếu nhất là tâm bồ-đề. Tâm bồ-đề là tâm mong ước làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh hữu tình. Làm lợi lạc cho chúng sinh hữu tình là điểm trọng yếu của tất cả mọi pháp hành Phật giáo. Đối với tất cả mọi pháp hành, dù quý vị đang thực hành pháp môn nào, hãy nghĩ đến lợi lạc của tất cả chúng sinh hữu tình. Khi đánh mất tâm niệm này, chúng ta mất tất cả mọi thực hành Phật pháp. Khi nghĩ mình thực hành vì lợi lạc của tất cả chúng sinh, khi đó việc thực hành Phật pháp mới bắt đầu và có thể được hoàn tất. Do đó, mỗi khi tôi giảng Pháp, tôi thường nghĩ nếu lời tôi nói làm lợi lạc dù chỉ cho một người thì tôi cũng cảm thấy hạnh phúc. Chính vì luôn nghĩ như vậy nên tôi không bao giờ cảm thấy mệt mỏi, tôi nghĩ đó là một lý do. Khi chúng tôi học, thầy của chúng tôi đã khá lớn tuổi. Khi chúng tôi đến tìm thầy, dù đang ngủ nhưng thầy tôi cũng lập tức thức dậy. Thầy không bao giờ nói rằng ngài không thể giảng dạy. Hiện tại thầy tôi đã chín mươi mốt tuổi. Chúng tôi vẫn đến hỏi thầy về Phật pháp, thầy vẫn tiếp tục dạy chúng tôi. Thậm chí khi chỉ nói được mười phút thầy đã bắt đầu ho, nhưng thầy vẫn tiếp tục dạy, vì vậy chúng tôi phải ngừng hỏi. Thầy tôi nói ngài luôn cầu nguyện rằng, “Nếu cuộc sống của tôi có thể mang lại lợi lạc cho người khác, có thể giúp ích cho bất kỳ chúng sinh nào thì nguyện cho tôi được sống. Nếu tôi không mang lại lợi lạc cho người khác, không giúp ích cho bất kỳ chúng sinh nào thì nguyện cho tôi được chết.” Ngài luôn nói như vậy. Đó chính là thực hành tâm bồ-đề. Đây chính là điểm trọng yếu của Phật giáo. Đây cũng là điểm chung xuyên suốt tất cả các truyền thống Phật giáo.